Sứ Mệnh Của Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (tiếp theo) |
Bản dịch Việt Ngữ của Giáo Hoàng
Học Viện Piô X
Prepared for Internet by
Vietnamese Missionaries in Asia
Chương IV: Gaudium Et Spes
Sứ Mệnh Của Giáo Hội Trong Thế
Giới Ngày Nay (tiếp theo)
43. Sự trợ giúp mà Giáo Hội cố
gắng nhờ các Kitô hữu mang đến cho hoạt động nhân loại
47*. Công Ðồng khuyến khích các Kitô hữu, công dân
của cả hai đô thị, hãy nỗ lực chu toàn cách trung thành
những bổn phận trần thế của họ và chu toàn dưới sự hướng dẫn
của tinh thần Phúc Âm. Thực sai lầm cho những ai đang khi
biết rằng chúng ta không có một quê hương trường tồn ở trần
thế và đang phải kiếm tìm một quê hương hậu lai để rồi vì đó
tưởng rằng mình có thể xao lãng các bổn phận trần gian
13, như thế là không nhận thấy chính đức tin buộc
phải chu toàn các bổn phận đó hoàn hảo hơn, mỗi người tùy
theo ơn gọi của mình
14. Ngược lại, cũng sai lầm không kém đối với
những ai nghĩ rằng có thể dấn thân hoàn toàn vào công việc
trần thế như thể các công việc ấy hoàn toàn xa lạ với đời
sống tôn giáo, vì cho rằng đời sống tôn giáo chỉ còn hệ tại
những hành vi phượng tự và một vài bổn phận luân lý phải chu
toàn. Sự phân ly giữa đức tin mà họ tuyên xưng và cuộc sống
thường nhật của nhiều người phải kể vào số những sai lầm
trầm trọng nhất của thời đại chúng ta. Và gương mù này ngay
trong Cựu Ước các Tiên Tri đã mạnh mẽ tố cáo
15 và trong Tân Ước chính Chúa Giêsu Kitô còn ngăm
đe nhiều hơn nữa bằng những hình phạt nặng nề
16. Vậy, không được đem sinh hoạt nghề nghiệp và
xã hội mà đối nghịch cách giả tạo với đời sống tôn giáo. Ðối
với người Kitô hữu, xao lãng bổn phận trần thế tức là xao
lãng bổn phận đối với người lân cận và hơn nữa đối với chính
Thiên Chúa, khiến phần rỗi đời đời của mình bị đe dọa. Theo
gương Chúa Giêsu đã sống như một người thợ, các Kitô hữu hãy
vui mừng vì có thể thi hành mọi hoạt động trần thế mà đồng
thời có thể liên kết trong một tổng hợp sống động duy nhất,
các cố gắng nhân loại, gia đình, nghề nghiệp, khoa học hay
kỹ thuật với các giá trị tôn giáo. Dưới sự điều hướng tối
cao của các giá trị tôn giáo này, mọi sự được qui hướng về
vinh danh Thiên Chúa.
Những phận
vụ và sinh hoạt trần thế thuộc lãnh vực riêng của giáo dân,
tuy không độc quyền thuộc về họ. Vì vậy, khi hoạt động, cá
nhân hay đoàn thể, với tư cách công dân trần thế, không
những họ phải tôn trọng các luật lệ riêng của mỗi ngành
nhưng còn phải ra sức tự luyện khả năng chuyên môn thực sự
trong các lãnh vực ấy. Họ sẽ sẵn lòng hợp tác với những
người cùng theo đuổi những mục đích chung. Nhìn nhận các đòi
hỏi và hưởng nhờ sức mạnh của đức tin, khi cần, họ sẽ không
do dự đề nghị và thực hiện những sáng kiến mới. Một khi được
đào luyện cách thích hợp, lương tâm họ phải đem luật Chúa
thấm nhập cuộc sống của xã hội trần gian. Giáo dân hãy mong
đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy
nhiên, họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: các chủ chăn có đủ thẩm
quyền chuyên môn để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho
mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng. Cũng đừng
lầm tưởng các chủ chăn vốn có sứ mạng ấy. Nhưng tốt hơn là
chính họ, được đức khôn ngoan Kitô giáo soi dẫn và cẩn thận
chú ý các giáo huấn của Giáo Hội
17, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình.
Thường thì
chính vũ trụ quan Kitô giáo sẽ hướng dẫn họ chọn một giải
pháp nhất định nào đó tùy hoàn cảnh. Tuy nhiên, cũng có
những tín hữu khác, dầu khá thực tâm, sẽ thẩm định cách khác
về cùng một vấn đề, như thường thấy xảy ra; và sự thẩm định
đó vẫn được coi là hợp lý như thường. Nhiều người dễ dàng
gán ghép với sứ điệp Phúc Âm những giải pháp mà họ đề ra,
mặc dầu nhiều khi ngoài ý muốn của họ. Nhưng nên nhớ trong
các trường hợp trên, không ai được độc quyền giành lấy thẩm
quyền của Giáo Hội để biện minh cho lập trường riêng
48*. Phải luôn luôn nỗ lực soi dẫn nhau bằng đối
thoại thành thực, bảo toàn tình tương ái và trước hết mưu
cầu công ích.
Người giáo
dân có những phận vụ tích cực phải chu toàn trong toàn thể
đời sống Giáo Hội. Không những họ phải đem tinh thần Kitô
giáo thấm nhuần thế giới nhưng còn được kêu gọi làm chứng
cho Chúa Kitô trong mọi hoàn cảnh, ngay giữa lòng cộng đoàn
nhân loại.
Còn các
Giám Mục đã được ủy thác việc điều hành Giáo Hội Chúa hãy
cùng các linh mục của mình rao giảng sứ điệp của Chúa Kitô,
sao cho mọi hoạt động trần thế của các tín hữu thấm nhuần
ánh sáng Phúc Âm. Hơn nữa, tất cả các chủ chăn hãy nhớ rằng
các Ngài sẽ biểu lộ cho thế giới một khuôn mặt của Giáo Hội
qua thái độ và ưu tư hằng ngày của mình
18. Qua khuôn mặt ấy, người ta phán đoán về sức
mạnh và chân lý của sứ điệp Kitô giáo. Bằng đời sống và lời
giảng, hợp cùng các tu sĩ và giáo hữu của mình, các ngài hãy
minh chứng rằng Giáo Hội, nguyên bằng sự hiện diện và kho
tàng ân huệ của mình, đã là nguồn vô tận của những mãnh lực
mà thế giới ngày nay rất cần. Các Ngài hãy trau dồi khả năng
bằng cách chuyên cần học hỏi sao cho có thể đóng trọn vai
trò trách nhiệm của mình trong khi đối thoại với thế giới và
những người thuộc bất cứ lập trường nào. Nhưng, trước hết
xin các ngài hãy ghi lòng những lời sau đây của Công Ðồng:
"Ngày nay, vì nhân loại ngày càng hiệp nhất về dân sự, kinh
tế và xã hội, nên các Linh Mục càng phải loại trừ mọi mầm
mống chia rẽ, phải nối kết cố gắng và khả năng mình dưới sự
hướng dẫn của các Giám Mục và Giáo Hoàng, để toàn thể nhân
loại hiệp nhất trong gia đình Thiên Chúa"
19.
Mặc dù Giáo
Hội, với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, vẫn là hiền thê trung
tín của Chúa mình và không ngừng là dấu chỉ ơn cứu rỗi trong
thế giới, tuy nhiên Giáo Hội biết rõ rằng trải qua bao nhiêu
thế kỷ vẫn không thiếu những phần tử trong Giáo Hội
20, giáo dân hoặc giáo sĩ, sống bất trung cùng
Thánh Thần Chúa. Ngay trong thời đại chúng ta, Giáo Hội
không quên sự cách biệt lớn lao giữa sứ điệp do Giáo Hội
công bố và sự yếu đuối nhân loại của những người được giao
phó rao giảng Phúc Âm. Dầu lịch sử có phê phán thế nào về
những khiếm khuyết ấy, chúng ta cũng phải ý thức và mạnh mẽ
khử trừ những thiếu sót để khỏi phương hại đến việc rao
giảng Phúc Âm. Cũng vậy, trong việc mở rộng tương quan với
thế giới, Giáo Hội biết mình phải luôn trưởng thành nhờ kinh
nghiệm qua các thế kỷ, Ðược Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Mẹ
Giáo Hội không ngừng "khuyên giục con cái thanh tẩy và canh
tân, để ấn dấu của Chúa Kitô chiếu sáng rạng ngời hơn trên
khuôn mặt Giáo Hội"
21.
44. Sự trợ giúp mà Giáo Hội nhận
được nơi thế giới ngày nay
49*. Cũng như thế giới cần phải nhìn nhận Giáo Hội
như một thực thể xã hội lịch sử và như men của lịch sử, Giáo
Hội cũng biết mình đã nhận được rất nhiều nơi lịch sử và sự
tiến hóa của nhân loại.
Kinh nghiệm
của những thế kỷ đã qua, tiến bộ của khoa học, các kho tàng
hàm chứa trong những hình thức văn hóa nhân loại khác nhau,
biểu lộ đầy đủ hơn bản tính của chính con người và mở ra
những con đường mới dẫn đến chân lý: tất cả những điều ấy
đều hữu ích cho Giáo Hội. Thực vậy, chính Giáo Hội ngay từ
buổi đầu của lịch sử mình đã ra sức diễn tả sứ điệp của Chúa
Kitô bằng những ý niệm và ngôn ngữ của nhiều dân tộc. Hơn
nữa, Giáo Hội còn cố gắng dùng sự khôn ngoan của các triết
gia để làm sáng tỏ sứ điệp ấy. Làm như thế, nhằm thích nghi
Phúc Âm, trong mức độ có thể, với tầm hiểu biết của mọi
người cũng như với những đòi hỏi của các nhà hiền triết. Rao
giảng lời mạc khải cách thích nghi như vậy còn phải là luật
lệ cho mọi công cuộc truyền giáo, bởi vì có như vậy mới khơi
dậy trong mọi quốc gia khả năng diễn tả sứ điệp Chúa Kitô
theo lối riêng của mình và đồng thời mới cổ võ được sự trao
đổi linh động giữa Giáo Hội và những nền văn hóa khác nhau
của các dân tộc
22. Ðể xúc tiến những cuộc trao đổi như thế, nhất
là trong thời đại chúng ta, thời mà sự vật biến đổi rất
nhanh và lối suy tư rất nhiều khác biệt, Giáo Hội đặc biệt
cần đến sự đóng góp của những người sống trong thế giới và
biết rõ các tổ chức và bộ môn khác nhau, cũng như thấu triệt
tinh thần các tổ chức và bộ môn đó, dầu họ có đức tin hay
không. Bổn phận của toàn thể Dân Chúa, đặc biệt của các chủ
chăn và các nhà thần học là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh
Thần, đón nghe, phân biệt và giải thích các tiếng nói của
thời đại, rồi phán đoán dưới ánh sáng lời Chúa để Chân Lý
mạc khải luôn được thấu triệt, được hiểu rõ và trình bày
cách thích hợp hơn.
Giáo Hội có
một cơ cấu xã hội hữu hình, dấu hiệu của sự hiệp nhất trong
Chúa Kitô, nên Giáo Hội cũng có thể được giàu có thêm và
thực sự đang được giàu có thêm nhờ sự tiến hóa của cuộc sống
xã hội nhân loại, không phải vì định chế do Chúa Kitô ban
cho Giáo Hội như thiếu một điều gì, nhưng là để định chế đó
được hiểu biết sâu xa hơn, được diễn tả trung thực hơn và
được thích nghi hoàn hảo hơn với thời đại chúng ta. Với lòng
biết ơn, Giáo Hội nhận thấy rằng Giáo Hội đã được nhiều
người thuộc mọi giai cấp và hoàn cảnh giúp đỡ nhiều cách cho
chính cộng đoàn cũng như cho từng con cái mình. Quả thực,
tất cả những ai phát triển cộng đoàn nhân loại trong phạm vi
gia đình, văn hóa, kinh tế, xã hội, chính trị và trên bình
diện quốc gia, cũng như quốc tế, đều trợ giúp không ít cho
cộng đoàn Giáo Hội, theo như ý định của Thiên Chúa, trong
mức độ Giáo Hội lệ thuộc những yếu tố bên ngoài. Hơn nữa,
Giáo Hội còn nhìn nhận rằng chính sự chống đối của những kẻ
công kích hay bách hại Giáo Hội đã và còn đang có thể giúp
ích cho Giáo Hội
23.
45. Chúa Kitô, Alpha và Omega.
Khi trao đổi với thế giới những sự giúp đỡ hỗ tương, Giáo
Hội nhằm một mục đích duy nhất là: làm cho Nước Chúa trị đến
và toàn thể nhân loại được cứu rỗi. Mọi lợi ích mà Dân Chúa
trong thời gian hành trình tại thế có thể đem lại cho gia
đình nhân loại đều phát xuất từ sự kiện này: Giáo Hội là "bí
tích phổ quát cứu rỗi"
24, tỏ bày và đồng thời thực hiện mầu nhiệm tình
yêu Thiên Chúa đối với con người.
Quả thực,
Ngôi Lời Thiên Chúa, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành,
đã làm người, là Con Người hoàn hảo, Người cứu rỗi mọi người
và kết thâu vạn vật nơi Người. Chúa là cùng đích của lịch sử
nhân loại, là điểm qui tụ mọi ước vọng của lịch sử và văn
minh, là trung tâm của nhân loại, là niềm vui của tâm hồn và
đáp ứng mọi niềm khao khát
25. Chính Người là Ðấng Chúa Cha đã phục sinh từ
kẻ chết, đã tôn vinh và cho ngự bên hữu, đặt làm thẩm phán
kẻ sống và kẻ chết. Ðược sống động và tụ họp trong Thánh
Thần Ngài, chúng ta đang hành trình hướng về chung cục lịch
sử nhân loại, phù hợp với ý định yêu thương của Ngài: "kết
thâu tất cả trong Chúa Kitô: mọi sự trên trời dưới đất" (Eph
1,10).
Chính Chúa
đã nói: "Vậy tiền công của ta sẵn đây rồi, này ta đến gấp mà
trả cho mỗi người tùy theo công việc họ làm. Ta là Alpha và
Omega, thứ nhất và sau chót, nguyên thủy và cứu cánh" (Kh
22,12-13)
50*.
Chú
Thích:
(lưu ý:
những số ghi chú nhỏ hơn đã được đăng vào những số báo
trước)
47*
Sống trong thế gian tín hữu phải tránh hai thái độ sai lầm:
1) bỏ sót công việc trần thế để chỉ lo cho việc đạo đức; 2)
chìm đắm trong công việc trần thế và coi công việc này như
không có liên quan gì đến việc đạo đức.
Qua cả hai sự sai lầm trên, người ta tách
biệt đời sống tôn giáo và đời sống nghề nghiệp hay đời sống
trần thế nếu nói rộng hơn (cuộc giải trí, văn hóa...) và lại
hành động theo luân lý cá nhân (số 30).
Ðức tin phải ảnh hưởng trên cả đời sống và
ta phải đem tinh thần Phúc Âm vào công việc trần thế: vào
nghề nghiệp, vào giao thiệp với người khác, vào văn hóa, vào
cuộc giải trí v.v... "Ðối với người Kitô hữu, xao lãng bổn
phận trần thế tức là xao lãng bổn phận đối với những người
lân cận và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa, khiến phần rỗi
đời đời của mình bị đe dọa": vì bổn phận trần thế là phương
tiện để thực hành đức mến đối với anh em và đối với Thiên
Chúa. Không thực hành đức mến tức là phạm đến toàn thể bộ
luật (x. Gal 5,14). Cho nên kẻ nào xao lãng bổn phận trần
thế hay là tách rời nó khỏi ảnh hưởng của tinh thần Phúc Âm
tức là người không sống đạo, họ không phải là người công
giáo.
48*
"3) Sau khi nhắc lại những nguyên tắc tổng quát trên đây,
Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam chiếu theo những sự kiện
lịch sử, chính trị, xã hội, tôn giáo hiện tại trong nước,
đồng thanh xác định như sau: a) Không cho phép một đảng phái
nào lấy tên là "Công Giáo" hay là "Thiên Chúa Giáo", để rồi
đảng ấy có thể xuất hiện như là đảng phái của Giáo Hội Công
Giáo tại Việt Nam. b) Kêu mời giáo dân Công Giáo phải ý thức
rằng: sức mạnh của họ trước hết phải ở trong tinh thần Chúa
Giêsu - tức là tinh thần Phúc Âm được mọi người sống động và
chiếu dọi chung quanh, như đã trình bày trong những đoạn nói
trên. c) Tuy nhiên để áp dụng nguyên tắc số 2 ở trên, hết
mọi người Công Giáo - với tư cách là người công dân - đều có
thể tự do ghi tên để gia nhập đảng này hay đảng khác tùy ý,
bất cứ là đảng ấy đã thành lập rồi, hay sẽ được những công
dân đầy đủ khả năng, can đảm thành lập về sau.
Ghi tên vào một đảng phái như thế, đồng bào
Công Giáo không cam kết Giáo Hội, nhưng chỉ cam kết cá nhân
mình...
Ðồng bào Công Giáo hoạt động trong đảng phái
mình đã lựa chọn, tuy nhiên cả trong hoạt động chính trị
(cũng như đời sống cá nhân, gia đình, nghề nghiệp) họ phải
là một nhân chứng của Chúa Kitô. Họ phải tìm cách để in sâu
vào trong các tâm hồn những luật lệ, những qui chế, tinh
thần Phúc Âm và học thuyết xã hội của Hội Thánh.
1) Hiện nay không có một tờ báo Công Giáo
nào, hay là một tờ báo có xu hướng Công Giáo nào đã được
Hàng Giáo Phẩm chỉ định để làm tiếng nói chính thức cho Công
Giáo...
2) Có những báo chí đã được thành lập do một
số giáo dân Công Giáo nhiệt thành, quảng đại; đó là quyền
lợi riêng của họ và chúng tôi thêm rằng: đó là nghĩa vụ của
họ. Chúng tôi để lời khen ngợi họ đã có sáng kiến tốt đẹp
như thế, và chúng tôi hết sức khuyên họ hãy tiếp tục bền
vững".
(Thư luân lưu của H.Ð.G.M.V.N., ngày 22
tháng 1 năm 1964, x. trong báo Sacerdos, số 27, tháng 3 năm
1964, (trg 170-171; 172-173).
49*
Từ xưa tới nay, thế giới cũng đem lại rất nhiều lợi ích cho
Giáo Hội. Quả quyết như vậy là xác nhận một sự kiện lịch sử,
nhưng có lẽ chỉ gần đây tín hữu mới ý thức về sự kiện ấy.
Giáo Hội lãnh nhận nhiều:
1) Trong lãnh vực tư tưởng nhờ các kho tàng
của nhiều nền văn minh khác nhau. Tất cả những gì giúp ta
hiểu biết hơn về con người và thế giới đều giúp đỡ Giáo Hội:
giáo dục, văn hóa, khoa học...
2) Trong lãnh vực cơ cấu xã hội: từ đầu,
Giáo Hội đã chịu ảnh hưởng của nếp sống Do Thái, của pháp lý
La Mã và Ðức Quốc, và ít hay nhiều của phong tục các dân tộc
khác nữa. Pháp lý các xứ truyền giáo đã ảnh hưởng rất nhiều
đến pháp lý chung của Giáo Hội chẳng hạn. Hiện nay ta thấy
ảnh hưởng của chế độ dân chủ qua những phong trào phân
quyền, nhiều cơ quan mới như Thượng Hội Ðồng Giám Mục, Hội
Ðồng Giám Mục, Hội Ðồng Linh Mục, v.v...
3) Trong lãnh vực sinh hoạt: khi các Quốc
Gia và các Tổ Chức quốc tế kính trọng sự tự do của Giáo Hội,
mời Giáo Hội cộng tác, giúp Giáo Hội hoạt động, hay là mặc
dầu không muốn nhờ Giáo Hội, nhưng khi các Tổ Chức ấy cố
gắng nâng cao con người nhờ việc giáo dục, nhờ việc bảo đảm
nhân quyền, v.v... thực ra họ đã làm những công việc có
chung mục đích với Giáo Hội.
Là người Việt Nam hay làm việc ở Việt Nam,
ta phải nhấn mạnh câu "Rao giảng lời mạc khải cách thích
nghi như vậy còn phải là luật lệ cho mọi công cuộc truyền
giáo". Sau hơn ba thế kỷ từ khi Phúc Âm tới Việt Nam, phải
chăng Ðạo chúng ta còn thấm nhuần màu sắc ngoại quốc quá
đáng? Người ngoại giáo có cảm tưởng đó không?
50* Alpha và Omega là
chữ đầu và chữ cuối của mẫu tự Hy Lạp. Câu nói có nghĩa là
khi dùng các chữ trong mẫu tự, ta có thể viết ra tất cả
những gì ta muốn. Vậy thì, nói về Chúa (cũng như về Thiên
Chúa Cha: Kh 1,8) có nghĩa là Chúa có toàn quyền để phán xét
nhân loại.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
TRUYỀN GIÁO
|
Cách đây không lâu, tôi có đọc trên
Internet chứng từ do một Đức cha Việt Nam kể lại như sau :
Tại thôn làng nhỏ bé ở miền thượng du
Bắc Việt, tất cả đều là người công giáo. Thế nhưng, từ hơn
hai mươi năm qua, họ không có linh mục coi sóc. Dầu vậy, họ
vẫn tổ chức các buổi đọc kinh và hát thánh ca tại nhà thờ.
Đây cũng là nơi họ tổ chức các lễ cưới và rửa tội một cách
trọng thể. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng họ vẫn sống trong
an vui và bình thản.
Tiếng đồn về niềm vui của họ đến tai
một làng sơn cước. Do đó, dân làng sơn cước này yêu cầu
những người công giáo cho người đến dạy họ các bài kinh và
thánh ca để họ cũng tìm được niềm vui.
Nhưng dân làng công giáo không tìm được
ai : người lớn thì phải đi làm công việc đồng áng, trẻ em
thì phải đi học, còn người già cả thì không đủ sức băng rừng
leo núi để tới giúp dân làng sơn cước. Chỉ có một người
thuộc kinh bổn, thánh ca và biết các nghi thức tôn giáo.
Nhưng đó lại là một người mù.
Sau khi bàn bạc với nhau, dân làng sơn
cước đã đồng ý sai người dẫn hai con ngựa đi rước người mù.
Người tín hữu tật nguyền này đã ở lại với dân làng bốn
tháng. Cứ mỗi tối, sau khi làm việc trở về, dân làng tụ họp
với nhau, nay nhà này, mai nhà khác, để tập đọc kinh và hát
thánh ca. Sau một thời gian, người giảng viên giáo lý mù đã
khảo sát và làm phép rửa cho người dân làng đầu tiên. Rồi
người tân tòng này lại rửa tội cho những người khác và cứ
như thế cho đến người cuối cùng.
Câu chuyện trên đã làm cho tôi suy nghĩ
và nhận ra trong đó cả một chương trình truyền giáo cần phải
được áp dụng cho cá nhân cũng như cho cộng đoàn. Thế nhưng
trước hết, truyền giáo là gì ?
TRUYỀN GIÁO
Đọc lại Phúc âm, hẳn chúng ta sẽ nhận
ra nỗi ưu tư số một của Chúa Giêsu khi còn ở trần gian, đó
là phải làm thế nào để người ta nhận biết tình thương của
Ngài, nhờ đó mà được cứu độ. Rất nhiều lần Ngài đã đề cập
tới vấn đề này :
- Thày đã ném lửa vào mặt đất, và Thày
những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên. (Lc 12,49).
- Cả các anh nữa, hãy vào làm vườn nho
cho tôi đi. (Mt 20,4).
Và rõ rệt hơn cả đó là lệnh lên đường
của Ngài trước khi về trời :
- Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở
nên môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con
và Chúa Thánh Thần, dạy cho họ tuân giữ những điều Thày đã
truyền cho anh em. (Mt 28,19-20).
Chính vì nỗi khắc khoải ấy, Ngài đã
chọn lựa các tông đồ và thiết lập Giáo hội để cộng tác với
Ngài qua giòng thời gian trong sứ mạng cứu chuộc nhân loại.
Ngày xưa, truyền giáo thường được hiểu
là Kitô hóa, nghĩa là làm sao rửa tội và đem vào Giáo hội
càng nhiều người càng tốt. Quan niệm như thế nhắm tới số
lượng hơn là nhắm tới chất lượng và đã tạo nên những Kitô
hữu “hữu danh vô thực”, nghĩa là chỉ mang tên gọi Kitô hữu,
chứ chưa thực sự sống niềm tin của mình.
Cụ thể tại các xứ đạo, phần đông những
người trở lại vì lý do hôn phối, cần phải rửa tội để lấy vợ
lấy chồng, hay để hợp thức hóa hôn nhân, nếu không có sự hỗ
trợ của những người thân yêu, thì khó mà sống đạo, nếu không
muốn nói là sẽ bỏ đạo, như chúng ta thường bảo :
- Con quì lạy Chúa Ba Ngôi,
Con lấy được vợ, con thôi nhà thờ.
Còn hiện nay, truyền giáo chủ yếu được
hiểu là phúc âm hóa, nghĩa là không chỉ nhằm đến việc rửa
tội cho nhiều người, mà quan trọng hơn là phải làm cho tinh
thần yêu thương của Đức Kitô thấm nhập vào tâm hồn mọi người
cũng như ảnh hưởng tới đời sống xã hội trong mọi lãnh vực,
bằng chứng từ đời sống của mình.
Thực vậy, đưa người khác vào Giáo hội
là điều cần thiết và quý hóa. Thế nhưng điều cần thiết và
quí hóa hơn chính là làm sao để họ biết thực sự sống tinh
thần của Đức Kitô. Rửa tội cho nhiều người mà thôi chưa đủ,
mà còn phải giúp họ đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Bởi
đó, truyền giáo là truyền một cách sống mới. Nếu chỉ lo dạy
giáo lý và rửa tội, chắc chắn chúng ta sẽ không thể nào chạy
đua với thời gian. Chẳng hạn chỉ tính riêng ở Việt Nam, với
số dân gần 80 triệu, trong đó có khoảng 6 triệu là công
giáo. Và mỗi năm có chừng 20.000 người theo đạo, thì chúng
ta phải mất 3.300 năm nữa mới làm cho tất cả số đồng bào hôm
nay được theo đạo.
Chính vì thế, Công đồng Vaticanô II đã
nhấn mạnh tới việc truyền giáo trong môi trường. Sắc lệnh
Tông đồ Giáo dân đã viết như sau :
- Làm tông đồ trong môi trường xã hội
có nghĩa là cố gắng đem tinh thần Kitô giáo thấm nhuần tư
tưởng, phong tục, luật lệ và cơ cấu của cộng đồng nơi họ
sống. (TĐ số 13)
Việc truyền giáo trong môi trường phải
khởi đi từ chính cuộc sống, từ chính đời thường. Trong chiều
hướng đó, Đức Hồng y Cardin (?),người sáng lập phong trào
Thanh Lao Công, có nói :
- Khi tôi gặp những người lao động trẻ,
cũng như những người lao động lớn tuổi, tôi luôn hỏi họ :
nhà bạn ở đâu ? Bạn làm ở hãng nào ? Bạn lãnh lương bao
nhiêu ? Bạn có thời giờ rảnh rỗi để chăm sóc con cái không ?
Chứ tôi không hỏi : Bạn có đi lễ không ? Bạn vào hội đoàn
công giáo nào ?
Muốn truyền giáo trong môi trường,
chúng ta phải chú ý đến trọng tâm của cuộc sống, của đời
thường, nơi con người thực sự sống cuộc sống của mình. Công
đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Giáo hội cũng đã viết :
- Họ sống giữa trần gian, nghĩa là giữa
tất cả cũng như từng công việc và bổn phận ở đời, trong
những cảnh sống thường ngày ở gia đình hay ngoài xã hội. Tất
cả những điều đó như dệt thành cuộc đời của họ. Đó chính là
nơi họ được Chúa mời gọi thi hành sứ vụ riêng của họ. Sứ vụ
đó là góp phần vào việc thánh hóa thế giới từ bên trong như
men nhờ có tinh thần Tin mừng thúc đẩy. Họ còn làm cho người
khác thấy Đức Kitô, nhất là qua đời sống, qua lòng tin, lòng
cậy và lòng mến của họ. (GH số 31).
Việc truyền giáo trong môi trường đòi
hỏi phải kiên trì và dài hạn, bắt đầu từ những công việc nhỏ
mọn như hạt cải.
Trong một buổi chia sẻ kinh nghiệm
sống, sau khi nghe Lời Chúa phán dạy : các con là muối, là
men…Tuyến, giáo sinh sư phạm năm thứ nhất, cho biết trong kỳ
thi cuối năm vừa qua rất nhiều người đã “quay phim”, nhưng
Tuyến đã cố gắng tự làm bài chứ không gian lận.
Thu, học sinh lớp 12, cho biết trong
lớp các bạn hay xả rác. Để làm sạch cho lớp, mỗi lần thấy
giấy vụn, Thu lặng lẽ cúi xuống lượm và bỏ vào sọt rác. Thế
nhưng, mấy lúc sau này, để chọc quê Thu, các bạn đã xé giấy
vụn thật nhỏ và vứt bừa bãi làm Thu nhặt không xuể và thế
là Thu chẳng thèm nhặt nữa.
Qua cuộc kiểm điểm đời sống và với sự
góp ý của cộng đoàn, Tuyến và Thu đều thấy rằng vấn đề không
phải là làm gương sáng, làm anh hùng cá nhân, làm bông sen
giữa bùn, nhưng là làm muối trong thức ăn, làm men trong
bột. Tuyến phải làm sao cho các bạn cũng như cho cả lớp cùng
thấy là không nên gian lận, nhất là đối với giáo sinh, những
nhà mô phạm sau này. Thu phải làm sao cho các bạn khác cùng
nhặt rác với mình hay làm sao cho không còn ai xả rác nữa.
Như vậy, truyền giáo trong môi trường
không chỉ nhằm thiết lập giáo điểm để dần dần lôi kéo họ đến
với Chúa, mà còn phải nhằm thay đổi con người, để rồi chính
con người sẽ thay đổi xã hội. Truyền giáo hôm nay là hiện
diện, làm chứng và chia sẻ. Người truyền giáo là người được
thôi thúc và hướng dẫn bởi Tin mừng, nhưng đồng thời cũng là
người sống giữa mọi người, chia sẻ thân phận của mọi người
và cùng với họ hướng cuộc đời về những giá trị của Tin mừng.
Chính vì thế, trong phạm vi cá nhân
cũng như xã hội, chúng ta cần phải xóa bỏ quan niệm tách
biệt đạo và đời, hay chia cuộc sống thành những ngăn nhỏ
hoàn toàn biệt lập và đức tin cũng chỉ chiếm một trong số
những ngăn nhỏ đó. Trái lại, chúng ta cần phải đem đạo vào
đời, tinh thần đức tin phải thấm nhập mọi sinh hoạt của
chúng ta, từ tư tưởng đến lời nói và việc làm. Như trái đất
xoay quanh mặt trời thế nào thì cuộc đời chúng ta cũng phải
xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên
như thánh Phaolô :
- Dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc
gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa. (1Ccor
10,31)
- Tôi sống, nhưng không còn phải là
tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. (Gal 2,20)
Mẹ Têrêxa Calcutta không nói nhiều,
nhưng cuộc đời của mẹ đã là bài giảng hùng hồn về một Thiên
Chúa hiện diện và yêu thương con người. Mẹ đã mang Đức Kitô
đến với những kẻ không chỗ tựa nương, những kẻ bị loại ra
khỏi xã hội. Bằng tình yêu phục vụ, mẹ đã đem sứ điệp Tin
mừng đến với mọi người, thuộc mọi quốc gia.
Tóm lại, chúng ta có thể định nghĩa một
cách đơn giản :
- Truyền giáo chính là loan báo Đức
Kitô, làm cho Tin mừng được thấm nhập vào từng tâm hồn, từng
môi trường bằng lời nói, bằng việc làm, hay nói cách khác,
bằng cả cuộc sống của mình.
Như thế, bổn phận truyền giáo phải là
một bổn phận gắn liền với bản tính của Giáo hội. Thực vậy,
trong Sắc lệnh về Truyền giáo, công đồng Vaticanô II đã viết
:
- Tự bản tính, Giáo hội lữ hành phải
truyền giáo, vì chính Giáo hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa
Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha. (TG
số 2).
Cũng vậy, trong Sắc lệnh Tông đồ Giáo
dân, Công đồng đã xác quyết :
- Giáo hội được khai sinh là để làm cho
nước Chúa Kitô mở rộng trên khắp hoàn cầu, hầu làm vinh danh
Thiên Chúa Cha : tức là làm cho mọi người tham dự vào việc
chuộc tội và cứu rỗi, để rồi nhờ họ, toàn thể vũ trụ thực sự
được qui hướng về Chúa Kitô. (TĐ số 2).
Bổn phận truyền giáo là một bổn phận
mang tính cấp bách như lời Chúa đã nói :
- Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít,
vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về. (Lc
10,2).
Theo thống kê của bộ Truyền giáo, dân
số trên thế giới vào đầu năm 2000 là 6.055.049.000 người
trong đó có 1.056.920.000 người công giáo, tỷ lệ gần 17%.
Riêng tại châu Á tỷ lệ mới được khoảng 3%. Còn ở Việt Nam là
7,5%. Từ đó, chúng ta nhận thấy rất nhiều người còn ngồi
trong tăm tối, chưa nhận biết ánh sáng Tin mừng của Chúa.
Bổn phận truyền giáo là một bổn phận
chung cho mọi Kitô hữu, không phân biệt giáo sĩ, tu sĩ hay
giáo dân. Sở dĩ như vậy cũng là điều dễ hiểu, bởi vì bất kỳ
chi thể nào cũng có bổn phận phải làm cho thân thể được sống
và phát triển theo cách thức riêng của mình. Cũng vậy, sống
trong lòng Giáo hội và là phần tử của Giáo hội, chúng ta có
bổn phận phải làm cho Giáo hội được lớn lên. Công đồng
Vaticanô II đã khẳng định :
- Mỗi Kitô hữu là một chi thể của Giáo
hội, được trao phó một nhiệm vụ độc đáo, không thể thay thế
cũng không thể ủy thác cho người khác được.
Trong sắc lệnh về “Tông đồ Giáo dân”,
Công đồng cũng viết :
- Trong nhiệm thể Đức Kitô tức Giáo
hội, toàn thân “tùy theo công dụng khả năng từng phần tử
khiến thân thể được phát triển” (Eph 4,16).
Hơn thế nữa, khi nhận được một tin vui,
chúng ta thường muốn nói cho người khác được biết để cùng
chia sẻ với chúng ta. Cũng vậy, sứ điệp Đức Kitô đem đến là
một Tin mừng. Một khi đã đón nhận Tin mừng của Ngài, chúng
ta cũng có bổn phận phải loan báo và chia sẻ Tin mừng ấy cho
những người chung quanh, bởi vì đã lãnh nhận nhưng không thì
cũng phải cho đi nhưng không.
Nếu thực sự gắn bó với Đức Kitô, chúng
ta sẽ phải cố gắng làm cho mọi người nhận biết và yêu mến
Ngài. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy, sau khi nghe Gioan
Tiền hô giới thiệu về Chúa Giêsu :
- Đây là Chiên Thiên
Chúa.
Andrê cùng với một môn
đệ khác đã đi theo Chúa Giêsu và ở lại với Ngài suốt ngày
hôm ấy. Sau đó, Andrê gặp anh mình là Simon và dẫn anh mình
đến cùng Chúa Giêsu. (Gio 1,35-42).
Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II, trong sứ điệp ngày truyền giáo năm 2001, đã viết
:
- Ai đã gặp được Đức
Kitô rồi, thì không thể chỉ giữ lại cho riêng mình mà thôi.
Có như vậy, ước nguyện
của Chúa mới trở thành sự thật :
- Xin làm cho danh
thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện
dưới đất cũng như trên trời. (Mt 6,9-10).
Để rồi cuối cùng chỉ
còn một đoàn chiên và một chủ chiên :
- Tôi còn có những
chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về.
Chúng sẽ nghe tiếng tôi, và sẽ chỉ còn một đoàn chiên và một
mục tử. (Gio 10,16).
Tuy nhiên, để đạt tới
mục đích ấy, mỗi người chúng ta phải tích cực góp phần vào
công cuộc truyền giáo của Giáo hội, bởi vì như lời thánh
Phaolô đã xác quyết :
- Làm sao họ kêu cầu
Đấng họ không tin ? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe ?
Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng ? Làm sao mà rao
giảng, nếu không được sai đi ? Như có lời chép rằng : Đẹp
thay những bước chân sứ giả loan báo những tin mừng. (Rom
10,14-16).
Và như chúng ta đã nói
:
- Có nhiều cách rao
giảng. Không phải chỉ rao giảng bằng lời nói, mà còn phải
rao giảng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.
Con người thời nay có
quá nhiều những lời hào nhoáng của những chương trình quảng
cáo, những lời hứa hẹn của các chính khách khi mùa bàu cử
trở về, những lời giảng hùng hồn của các linh mục trong
thánh lễ. Nói thì nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Trăm
nghe không bằng một thấy. Vì vậy, họ rất cần những chứng từ
sống động xuất phát từ lòng cuộc đời.
Đức Thánh Cha Phaolô VI
trong tông huấn “Loan báo Tin mừng” đã dạy :
- Tin mừng trước tiên
phải được loan báo bằng cách làm chứng.
Tuy nhiên, để trả lời
cho câu hỏi làm chứng là như thế nào, Đức Thánh Cha đã viết
:
- Cứ xem một Kitô hữu
hay một nhóm Kitô hữu, đang sống giữa cộng đồng những con
người, mà tỏ ra khả năng thông cảm và đón nhận, thái độ chia
sẻ cuộc đời và vận mệnh với kẻ khác, tình liên đới trong các
nỗ lực chung nhằm tất cả những gì cao thượng và tốt lành. Cứ
xem họ chiếu tỏa, một cách thật đơn sơ và hồn nhiên, niềm
tin của họ vào những giá trị vượt xa những giá trị thông
thường và lòng trông cậy vào những gì người ta không trông
thấy, không dám mơ tưởng. Bằng cách làm chứng không lời như
thế, những người Kitô hữu kia gợi lên những câu hỏi không
tránh được trong tâm trí những ai nhìn thấy họ sống : Tại
sao họ như thế ? Tại sao họ sống như vậy ? Cái gì – hay ai
– đang thôi thúc họ ? Tại sao họ ở giữa chúng ta ? Làm chứng
như thế đã là loan báo Tin mừng một cách thầm lặng mà rất
mạnh mẽ và hiệu quả. Đó là một cử chỉ khai mào cho việc Phúc
âm hóa. (số 21).
Loan báo Tin mừng bằng
cách làm chứng, nghĩa là bằng chính đời sống, bằng chính
cách ăn nết ở phù hợp với điều mình tin. Đơn giản chỉ có
thế. Bởi đó, mỗi người tín hữu đều có thể và phải thực hiện
nơi cá nhân, nơi gia đình và nơi cộng đoàn của mình, để góp
phần nhỏ bé vào việc chiếu tỏa ánh sáng Tin mừng.
còn tiếp
GSVN
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Linh mục ,
người được thánh hiến |
(29.6.2007, lễ trao tác vụ Linh Mục, Nhà Thờ Chính Tòa SG)
Anh Chị
Em rất thân mến,
1. Quy tụ trong nhà
Chúa hôm nay, gia đình giáo phận cùng nhau cử hành lễ trao
tác vụ LM cho 18 phó tế. Trước hết, tôi xin gởi lời chào
thân ái đến anh em linh mục, anh chị em tu sĩ và giáo dân,
các phụ huynh và các tiến chức. Đồng thời, với tư cách là
người đứng đầu trong gia đình, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn
chân thành đối với các vị đồng hành với các tiến chức trong
hành trình đào tạo, đối với quý gia đình phu huynh và tất cả
những ai đã góp phần vật chất và tinh thần để cung những
người thợ cho vườn nho của Chúa, đáp ứng nhu cầu của đoàn
chiên Chúa trong TP nầy.
Qua nghi thức trao tác vụ LM, TC sẽ thánh hiến các tiến
chức, sẽ trao ban cho họ ơn thánh hiến. Xin mọi người hãy
dành một ít phút để tâm suy nghĩ về ý nghĩa của ơn thánh
hiến nầy và tìm cách vun phân tưới nước cho ơn thánh hiến đó
phát triển và đơm bông kết trái cho cộng đồng dân Chúa.
2. Ơn thánh hiến là ơn
trao cho các tiến chức khả năng và trách nhiệm trở nên đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô. Khả năng trở nên đồng hình
đồng dạng với CK nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là trở nên
giống CK là Lời yêu thương của TC ngỏ với dân Người, trở nên
giống CK là tấm bánh bẽ ra vì sự sống con người, trở nên
giống CK là Đấng thánh thiện như Cha trên trời, là Đấng hiền
lành và khiêm tốn phục vụ cho Tin Mừng và phần rỗi của mọi
người. Tóm lại, ơn thánh hiến là ơn giúp cho LM khắc hoạ
lại khuôn mặt CK Mục tử như lòng Chúa mong ước.
3. Vì phần rỗi của mọi
người, ơn thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ gì? Thưa ơn
thánh hiến trao cho LM những nhiệm vụ rất cụ thể nầy: (1)
chiếu toả ánh sáng chân lý của CK khi giảng dạy, (2) mang
lấy tâm tình yêu thương và hy sinh của CK khi cử hành các bí
tích, (3) bày tỏ lòng nhân hậu và bao dung của CK khi giao
tiếp với mọi người, (4) mặc lấy phong cách hiền lành và
khiêm tốn phục vụ của CK khi đồng hành với cộng đoàn tín hữu
trong mọi sinh hoạt, mặc lấy thái độ của CK trân trọng và
chăm lo cho sự sống và phẩm giá của mọi người, đặc biệt
người nghèo khổ, bất hạnh.
4. Trên đường bước theo
Chúa Kitô, trở nên giống CK, LM còn có bổn phận thi hành Lời
Chúa dạy hãy quên mình và bỏ mình.
(1) Quên mình có nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là phải từ bỏ
cách suy nghĩ và hành động theo ý riêng ích kỷ hẹp hòi, để
tâm trí luôn tìm ý Chúa được thể hiện qua Lời Chúa, qua giáo
huấn và đời sống của Giáo Hội, và chuyên tâm thi hành ý Cha
trên trời trong mọi tình huống của cuộc đời.
(2) Bỏ mình có nghĩa là gì? Thưa có nghĩa là phải rũ bỏ
thói quen chiều theo lòng tham sân si, rập khuôn theo thói
đời và sự khôn ngoan thế gian, để tâm hồn luôn mở rộng cho
sự soi sáng và dẫn dắt của Chúa Thánh Thần trên Đường Giêsu
là đường dẫn đến chân lý và yêu thương phục vụ.
5. Trong hành trình trở
nên giống CK, LM luôn có CK đồng hành như Người đã đồng hành
với hai môn đệ về làng Eâmau. Ngoài ra, LM được CK ký thác
cho Mẹ Người, như đã ký thác người môn đệ thân yêu.
Giờ dây tôi cũng ký thác anh em tiến chức cho sự phù trợ và
giáo dục của Người Mẹ Hiền Maria, ký thác cho sự nâng đỡ và
lời cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, của hàng linh mục,
của gia đình thân thuộc.
Anh em tiến chức hãy đón Người Mẹ Hiền và mọi thành viên
trong gia đình về nhà mình, hãy luôn gần gũi với mọi người.
Nếu được thế, tôi tin rằng cuộc đời của anh em sẽ chan chứa
bình an và niềm vui, anh em sẽ tìm gặp lẽ sống trong công
cuộc xây dựng niềm tin yêu và hy vọng cho gia đình thân
thuộc của mình, cho gia đình giáo xứ và giáo phận của chúng
ta.
Xin TC hoàn tất việc Người đã khởi sự nơi anh em. Xin TC
chúc lành cho mọi người góp phần và hỗ trợ cho việc hình
thành và đào tạo những mục tử như lòng Chúa mong ước.
+ HY. GB. Phạm Minh Mẫn |
VỀ MỤC LỤC |
|
HAI CHỊ EM
MÁC-TA VÀ MA-RI-A |
“Trong khi thầy trò đi đường, Chúa
Giêsu vào làng kia. Có một người phụ nữ tên là Mác-ta đón
Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Ma-ri-a. Cô nầy cứ
ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người dạy. Còn cô Mác-ta thì
tất bật lo việc phục vụ.
Cô tiến lại mà nói: ‘Thưa Thầy,
em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao? Xin
Thầy bảo nó giúp con một tay!’ Chúa đáp: ‘Mác-ta!
Mác-ta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có
một chuyện cần thiết mà thôi. Ma-ri-a đã chọn phần tốt nhất
và sẽ không bị lấy đi.’” (Lc 10, 38-42)
***
Trước tiên, tôi phải thú nhận rằng tôi
có cảm tình với hai chị em nầy, có lẽ vì hai trong số năm
chị em của tôi có tên gọi là Mác-ta và Ma-ri-a.
Thôi bây giờ để chuyện đó sang một bên để tôi có thể tiếp
tục suy tư với một lương tâm thanh thản. Tôi muốn nêu lên
một câu hỏi. Ai trong hai chị em đó mà bạn cảm thấy buồn cho
họ? Tôi không có một chút nghi ngờ nào là bạn có cảm tình
với cô Mác-ta.
Quá rõ ràng
Phúc Âm thật chính xác cho cuộc sống,
cuộc sống của bạn và của tôi. Chúng ta đã rơi vào những hoàn
cảnh tương tự. Bạn đã làm việc tất bật, làm việc túi bụi và
hết hơi, và ước mong phải chi có thêm đôi cánh tay khác nữa.
Tuy nhiên những người chung quanh bạn không quan tâm đến
những gì bạn đã phải làm.
Ban đầu bạn chịu đựng trong thinh lặng
nhưng chẳng mấy chốc bạn bị tổn thương. Bạn bị cuốn lôi vào
chỗ phản kháng như Mác-ta đã làm khi chị nói: “Thưa
Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?
Xin Thầy bảo nó giúp con một tay!” (Lc 10, 40)
Rõ thật bất công kinh khủng. Ngay cả
một đứa con nít có thể nhận thấy Ma-ri-a ngồi thừ ra đó và
tán gẫu với khách, trong khi để người chị làm tất cả mọi
việc trong bếp một mình. Tuy nhiên Chúa Giêsu nhận thấy điều
đó như thế nào. Thay vì đứng về phía Mác-ta, Chúa Giêsu
đã theo phía Ma-ri-a. Điều đó xem ra không hợp lý. Nhưng
cuộc sống hợp lý từ khi nào? Bất cứ ai tưởng rằng cuộc sống
hợp lý thì đã nhầm lẫn nghiêm trọng.
Bị quấy rầy và phiền nhiễu
Mác-ta, Ma-ri-a và người em là La-da-rô
ở trên Con Đường Chính (Main Street) đi qua Bê-ta-ni.
Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô không phải là những cộng
sự viên, những người phụ tá hay những môn đệ của Chúa Giêsu.
Họ chỉ là những người bạn tốt.
Be-ta-ni ở trên Con Đường Chính cách
trung tâm Giê-ru-sa-lem khoảng một dặm đường. Bất cứ khi nào
Chúa Giêsu đi trên con đường lên Giê-ru-sa-lem, Ngài không
thể đi ngang qua cửa nhà họ mà không ghé vào nhà và họ luôn
mầng rỡ đón tiếp Ngài.
Trong trường hợp nầy, Ngài đang trên
đường đi lên kinh thành Giê-ru-sa-lem lần cuối cùng.
Đoạn chót cuộc đời của Ngài đang gần kề. Chỉ còn trên tám
ngày nữa thôi. Ngài bị quấy rầy và bị phiền nhiễu bởi những
người đang âm mưu giết Ngài. Ngài phải làm việc kiên trì và
kiệt sức. Vào ngày hôm đó, tất cả những gì Ngài mong muốn là
được thư giãn, trò chuyện và có thể, nhấp một hai ly
rượu hay bất cứ loại giải khát nào mà họ có.
Chính vào thời điểm đó mà Mác-ta quyết
định nhập cuộc, rối rít lên vì muốn dọn một bữa ăn thịnh
soạn. Do đó chị đã hối hả đi dọn bữa với những chén dĩa lách
cách và ăn nói rối rít. Một bữa ăn thịnh soạn có thể không
phải là điều cuối cùng mà Chúa Giêsu mong muốn. Tất cả những
gì Ngài ước ao hôm đó là trình bày không úp mở với bạn bè
trong một khung cảnh ấm cúng tương đắc.
Ma-ri-a đã nhận ra điều đó, còn Mác-ta
thì không. Vào những khi khác, có thể Chúa Giêsu sẵn sàng
chấp nhận một bữa ăn thịnh soạn, nhưng lần nầy, Ngài mong
được yên lặng và bình an. Ma-ri-a hiểu, nhưng Mác-ta
không hiểu.
Nhạy cảm
Tôi thiết nghĩ đoạn Phúc Âm hôm nay nói
về sự nhạy cảm. Rất thường khi, chúng ta muốn
tỏ ra ân cần với những người mình yêu và có thể chúng ta rất
ân cần nữa. Nhưng sự tử tế theo chúng ta nghĩ và cũng như
Mác-ta ở đây, cuối cùng đôi khi gây tai hại cho người
khác bởi lòng tử tế của chúng ta.
Một sự kết thúc có tính cách lý tưởng
cho câu chuyện nầy có lẽ là hai chị em sẽ thay đổi công tác
cho nhau sau bữa ăn. Ma-ri-a nên đi vào nhà bếp, rửa chén
bát, còn Mác-ta ngồi bên cạnh Chúa Giêsu, nín thở, say đắm
nghe mỗi lời Ngài nói.
Điều đó xem như chấm dứt câu chuyện một
cách hài hòa và xua tan cảm giác bất công. Buồn thay, cuộc
sống không phải luôn luôn rõ ràng ngăn nắp như thế. Thông
thường ai dọn ăn trưa, cũng dọn ăn tối luôn và ai rửa chén
bát ban trưa, cũng rửa chén bát ban tối.
Ở trong mỗi người chúng ta đều có cả
Mác-ta lẫn Ma-ri-a. Chúng ta có thể làm nên một sự khác biệt
đối với người thân cận và yêu thương nhất của chúng ta là
chúng ta biết tìm cách đạt được sự quân bình hợp lý!
LM Vincent Travers, OP
Hương Vĩnh chuyển ngữ |
VỀ MỤC LỤC |
|
TRÁNH PHÊ BÌNH – CHÚ TRỌNG ƯU ĐIỂM HƠN LÀ KHUYẾT ĐIỂM |
Thông thường thì con
người thích phê bình người khác hơn là tán dương vì ai cũng
muốn cho thấy mình có một cái gì hơn người khác. Chúng ta có
thể thấy được điều đó qua phương cách chúng ta giáo dục con
trẻ. Để tỏ ra là những con người có hiểu biết hơn, khôn
ngoan hơn, kinh nghiệm hơn, chúng ta thích chú trọng đến
những sai lỗi của con trẻ để sửa dạy hơn là chú trọng đến
những ưu điểm để khuyến khích. Nhưng đó là một phương cách
không thích hợp cho việc giáo dục của chúng ta.
Kỳ Vũ, 8 tuổi, vừa viết
xong lá thư cảm ơn cho bà nó. Mẹ nó bảo muốn coi thử. Một
cách miễn cưỡng, nó đưa thư cho bà mẹ coi. “Ô, Kỳ Vũ! Hãy
coi lối viết văn kỳ cụïc của con. Sao con lại viết chữ xiên
xẹo vậy ? Có mấy chữ con viết sai chính tả. Con không thể
gởi một bức thư lộn xộn như vậy cho bà con!” Bà mẹ viết ra
những chữ sai và bảo cậu bé viết lại bức thư.
Nhưng càng viết cậu bé
càng sai nhiều hơn. Bỏ hết trang giấy nầy đến trang giấy
khác, sau cùng cậu bé bật khóc và ném bút xuống. “Con không
thể viết đúng được nữa”, nó hét lên. Bà mẹ ra lệnh: “Thôi đủ
rồi. Con đi làm việc khác trong vòng nửa tiếng đồng hồ, rồi
trở lại viết.”
Sự nhấn mạnh đến các lỗi
lầm là một đại họa. Cậu bé thích thú viết lá thư cho bà và
bà nó cũng sẽ sung sướng với lá thư của nó. Nhưng bây giờ nó
đâm ra ghét lá thư. Khi bà mẹ tập trung sự chú ý vào những
sai lỗi, bà đã làm cậu bé đổi hướng từ cái tích cực sang cái
tiêu cực. Nó trở thành sợ làm điều sai lỗi. Sự sợ đó dày vò
nó đến nỗi càng làm càng nhiều lỗi. Nó thạät sự thất đảm và
đó là một đại họa cho nó.
Khi chúng ta để ý đến
những lầm lỗi, chúng ta làm cho những con trẻ chúng ta mất
hết tinh thần. Chúng ta không thể xây dựng trên những khuyết
điểm mà phải xây dựng trên những ưu điểm.
Kỳ Vũ đã gặt hái được
nhiều biết bao nếu bà mẹ biết ca tụng tư tưởng của nó muốn
viết thư cho bà nó. Lẽ ra, bà nên nhấn mạnh đến phương diện
tích cực và cho nó một sự thích thú. Nó có khuynh hướng muốn
làm nhiều điều cần có đầu óc suy nghĩ. Bà mẹ nên tìm những
mẫu viết thư hay, giới thiệu cho nó, và khuyến khích nó với
những lời lẽ: “Mẹ thấy con đã viết một lá thư hay. Rất tốt.
Con hãy cố gắng làm như vậy!” Cậu bé tất nhiên cảm thấy được
khích lệ, nên sẽ thích thú và cố gắng làm tốt hơn với sự tự
tin vào khả năng của nó. Bà mẹ không nên quá để ý vào việc
viết sai chính tả. Sự ước muốn liên hệ, đối thoại là điều
quan trọng lúc nầy. Không nên quá đòi hỏi nơi một đứa trẻ.
Chúng ta mất nhiều thời
giờ với con trẻ, canh chừng để xem chúng có làm điều gì sai
lỗi và lập tức chúng ta nhảy vào để cứu chúng. Hệ thống huấn
luyện con trẻ chúng ta xem ra dựa trên tư tưởng nầy là:
chúng phải được huấn luyện ra khỏi lỗi lầm và đi vào nhân
đức. Chúng ta sống trong nỗi lo sợ rằng con trẻ chúng ta sẽ
lớn lên xấu, học thói xấu, phát triển những cử chỉ thái độ
không mấy tốt đẹp. Chúng ta canh chừng chúng và cố gắng ngăn
ngừa khỏi những sai lỗi. Một cách thức như thế cho thấy
thiếu niềm tin vào con trẻ chúng ta. Điều đó gây xúc phạm và
làm chúng mất can đảm. Với sự nhấn mạnh trên những tiêu cực,
làm sao chúng ta có thể mong đợi đứa trẻ cảm thấy có đủ năng
lực để tiến tới sự hoàn thành một công việc gì được?
Khi được sửa sai tức
khắc, đứa trẻ không những cảm thấy nó luôn sai lỗi mà con
trở nên sợ sệt về việc làm sai lỗi đó. Sự sợ như thế đưa đến
việc không muốn làm bất cứ một chuyện gì vì sợ có thể làm
sai lầm. Sự sợ ám ảnh nó đến nỗi làm mất khả năng hoàn thành
công việc. Nó sẽ bị ấn tượng nầy là: “ngoại trừ mình hoàn
toàn, mình sẽ không có giá trị gì.” Tuy nhiên, toàn vẹn là
một điều không thể có được. Và cố gắng để được toàn vẹn ít
dẫn tới sự thăng tiến mà thường chỉ dẫn tới sự đầu hàng
trong thất vọng.
Tất cả chúng ta đều sai
lỗi. Nhiều lần chúng ta ngay cả không biết rằng hành động
đó là một sai lỗi cho đến khi chúng ta làm xong và nhìn thấy
những kết quả xảy ra. Thỉnh thoảng chúng ta ngay cả phải làm
những lầm lỗi để khám phá ra rằng đó là một sai lầm. Chúng
ta phải có can đảm nhận là mình bất toàn và cũng cho phép
con trẻ chúng ta trở thành bất toàn. Chỉ trong cách thế đó,
chúng ta mới lớn lên, tiến lên, và hoàn thành công việc. Con
trẻ chúng ta sẽ có can đảm và cố gắng học hành hơn nếu chúng
ta bớt chú trọng đến những sai lỗi và chú ý đến những gì
tích cực hơn. Làm một lầm lỗi thì không quan trọng cho bằng
điều chúng ta cần làm để cải thiện ngay sau khi chúng ta
nhận thức được.
lm.lêvănquảng, tiến sĩ tâm lý |
VỀ MỤC LỤC |
|
NHỮNG
VẤN NẠN XUNG QUANH VẤN ĐỀ ĐỘC THÂN |
Tác phẩm Giáo Hội Cần Loại Linh Mục
Nào? (tiếp theo)
Lm Giuse Lê Công Đức chuyển ngữ từ
bản tiếng Anh:
PRIESTHOOD IMPERILED, Tác giả:
Lm. BERNARD HARING, C.SS.R.
Khi nói về sự độc thân vì Nước Trời,
chúng ta phải hết sức cẩn
thận để phân biệt giữa độc thân xét như một sự chọn lựa tự
do nơi tự thân nó và sự độc thân được chọn lựa như một điều
kiện dứt khoát để được truyền chức linh mục.
Những xem xét khẩn
trương
Những xem xét xa hơn nữa sẽ giúp chúng
ta phân biệt giữa sự chấp nhận tự do đích thực đối với
đời độc thân xét như là tiêu chuẩn được kỳ vọng cho chức
linh mục của đời tu và, đàng khác, sự chấp nhận tự do không
chủ yếu cho giá trị và hấp lực nội tại của chính nó - mà bởi
vì đó là điều kiện dứt khoát để trở thành một linh mục. Qua
quá trình thời gian, sự đồng ý vì luật đòi hỏi nó có thể trở
thành một nguồn vui với một nhận thức được đào sâu hơn về ý
nghĩa và vẻ đẹp của nó, hoặc đàng khác nó có thể ngày càng
trở thành một gánh nặng phải mang.
Mỗi linh mục sống đời độc thân của mình
một cách độc đáo trong bối cảnh văn hóa và xã hội riêng của
mình. Chúng ta sẽ nhận ra rằng bối cảnh xã hội tại phần lớn
các quốc gia ngày nay rất khác biệt với bối cảnh đã tồn tại
vào thời mà luật nối kết chức linh mục với đời độc thân xuất
hiện trong Giáo Hội.
May mắn
Việc so sánh giữa tình yêu và sự trung
thành trong đời hôn nhân đích thực với một đời sống độc thân
đích thực sẽ là khởi điểm của tôi cho cuộc thảo luận này, vì
tôi tin rằng một đời hôn nhân hạnh phúc là một hình ảnh
thích đáng để đối chiếu với một cuộc đời độc thân được sống
cách chân thực và thuyết phục.
Vợ chồng Eric và Dorothee, những người
bạn của tôi, mời tôi tham dự dịp họ cử hành ngân khánh hôn
nhân. Vì tôi không thể tham dự, sau đó Eric đã kể cho tôi
mẩu đối thoại giữa anh và vợ anh trong dịp đó. Trước mặt tất
cả bạn bè và quan khách, anh nói với vợ: “Thật may mắn em
ạ! Hôm nay chúng ta vẫn yêu nhau như chúng ta đã yêu nhau
vào ngày đầu tiên của cuộc sống vợ chồng.” Nghe tới đây, vẻ
mặt Dorothee sa sầm, và Eric kịp nhận ra mình đã nói tầm
phào, anh lập tức đính chính:
Anh xin lỗi vì đã đánh giá chưa đúng
về cuộc sống chung giữa chúng ta. Một điều rất rõ ràng là
tình yêu của chúng ta đã được đào sâu và trở nên vững chắc
hơn. Trong quá trình đó, chúng ta đã học biết chấp nhận
những mảng tối của nhau – là cái làm cho ánh sáng trở nên
rực rỡ hơn. Qua ngần ấy tháng năm, chúng ta đã giúp nhau xử
lý các điểm yếu của mình. Đành rằng khi đi vào cuộc sống
chung, chúng ta đã đủ trưởng thành, nhưng quá trình học hỏi
đã không phải lúc nào cũng lãng mạn. Chúng ta đã thường cần
phải xin nhau sự thứ tha. Và tình yêu của chúng ta đã lớn
lên biết bao khi chúng ta chia sẻ nó với bốn đứa con của
mình, nhất là trong quá trình học hỏi hết sức thiết yếu để
nuôi dạy Gerald, đứa con trai bệnh hoạn tội nghiệp của chúng
ta. Cám ơn em thật nhiều, Dorothee! Ngay từ đầu, em đã sẵn
sàng tín nhiệm vào anh – và em vẫn luôn luôn sẵn sàng tín
nhiệm như thế trong quá trình cả hai chúng ta ngày càng khám
phá nhiều hơn về các tiềm năng bên trong của mình. Chúng ta
hãy hy vọng rằng, trong những năm sắp đến, tình yêu của
chúng ta sẽ tiếp tục lớn lên, tiếp tục sinh hoa trái và chín
muồi.
Những ý tưởng tuyệt vời ấy của anh bạn
tôi đã thường xuyên thúc đẩy tôi suy tư về cách sống và cách
yêu đời độc thân của chính mình trong và xuyên qua tình yêu
không ngừng lớn lên của Đức Kitô. Tôi cảm nghiệm Đức Kitô đã
diễn tả tình yêu của Ngài đối với tôi một cách vô cùng quảng
đại và kiên nhẫn. Rõ ràng chính bởi tình yêu mà Thiên Chúa
đã chọn tôi vào đời sống linh mục, và tôi có thể chân thành
nói rằng cũng chính bởi tình yêu mà tôi đã đáp trả lại tiếng
gọi ấy. Chắc hẳn hơn cả Eric và Dorothee, tôi đã phải học
biết loại tình yêu này đòi hỏi những gì và bao hàm những gì.
Đó là một quá trình học tập lâu dài, và tôi hoàn toàn nhận
ra rằng quá trình này phải tiếp tục. Tôi vuốt ve hy vọng
rằng tôi sẽ luôn luôn là một học trò chăm chỉ, biết mở ra
đón nhận những ý tưởng mới và những khả năng mới. Tạ ơn Chúa
vì trên đường mình đi tôi đã không có một khủng hoảng nghiêm
trọng nào, nhưng chắc chắn đã có nhiều lỗi lầm và thiếu sót.
Cho phép ngọn lửa của Thánh Thần thanh luyện các động cơ của
mình và, đồng thời, đánh thức trong mình một tinh thần khiêm
tốn và quảng đại sâu xa hơn, tôi cảm nghiệm thấy việc đó đã
không phải bao giờ cũng “du dương lãng mạn”.
Chỉ dần dần tôi mới nhận biết rằng Đức
Kitô, Đấng Cứu Độ, đã gặp gỡ và đã trắc nghiệm mình nhất là
qua những con người trong hoàn cảnh khốn khổ, chẳng hạn
những người li dị – họ chìm đắm trong bao nỗi khó khăn, họ
phải chịu đựng bao thái độ phê phán và bài xích, ngay cả từ
phía Giáo Hội. Mặc dù nay tôi đã luống tuổi, tôi vẫn ý thức
rằng mình chỉ là một học trò bé bỏng mà thôi.
Sống độc thân và yêu thương trong tư
cách một con người độc thân trong thế giới hôm nay là một
công việc chỉ có thể đảm nhận trôi chảy khi chúng ta đặt sự
tín thác của mình không phải vào chính mình mà vào chỉ một
mình Thiên Chúa, và biết không ngừng mở lòng ra đón nhận sự
hướng dẫn của Mầu Nhiệm Thánh.
Cám ơn các bạn, Eric và Dorothee, vì đã
tặng cho tôi một bài học tuyệt vời! Mong sao bài học này sẽ
sinh hoa kết quả trong đời tôi và trong đời nhiều bạn bè
linh mục độc thân của tôi!
Bất chấp những khó
khăn
Có lần tôi giảng tuần đại phúc cho
những người tị nạn. Vài ngày đầu, trong số những người lớn
đến tham dự chỉ có một người là đàn ông. Không rõ vì lý do
gì, những người đàn ông khác trong thị trấn hứa với nhau
rằng họ sẽ không đến nghe giảng. Tò mò muốn tìm hiểu, tôi
gặp đôi vợ chồng duy nhất vốn vẫn đến tham dự một cách đều
đặn và sốt sắng. Trong cuộc trao đổi ấy, người vợ đã kể cho
tôi nghe câu chuyện riêng của chị. Hồi còn là một thiếu nữ,
chị từng có ý định trở thành một nữ tu, nhưng rồi chị gặp
Robert và phải lòng anh ấy. Bị giằng co trong lòng, chị gặp
cha giải tội và thố lộ nỗi băn khoăn: “Thưa cha, giữa hai
đàng: trở thành một nữ tu và chinh phục một người đàn ông về
với đức tin, đàng nào sẽ đẹp lòng Chúa hơn?” Chị tin chắc
rằng mình sẽ thuyết phục được Robert một cách khá dễ dàng,
vì anh ta là một chàng trai thật sự tuyệt diệu. Quả vậy, chị
đã hoàn toàn thành công trong việc đó.
Chính nhờ những cố gắng của người chồng
rất có khả năng và giàu nhiệt tâm của chị mà chúng tôi đã có
thể lôi kéo được hầu như tất cả nam giới Công Giáo của thị
trấn ấy đến với tuần đại phúc. Người vợ tuyệt vời của anh đã
bắt đầu bằng một cú liều lớn, và chị đã gặt hái được gấp
trăm. Điều tương tự cũng đúng đối với nhiều người trẻ cảm
thấy viễn tượng sống độc thân suốt đời là một cú liều. Nếu
các linh mục thật sự yêu mến Thiên Chúa và đoàn dân của
Ngài, trong đó gồm cả những con người khó khăn và khốn khổ
nhất, tại sao họ không dám liều và – trong ý thức về những
giới hạn của con người mình – mạnh dạn xin được giải chức
trong trường hợp họ nhận ra rằng mình không thể sống độc
thân được nữa?
Một số người trẻ rất nhiệt thành với
Thiên Chúa và rất say mê việc chinh phục người ta cho Thiên
Chúa, nhưng họ không thích thú với đời độc thân, nhất là nếu
họ sợ sự nguyền rủa của những kẻ khác và lo ngại khả năng
mình có thể bị đối xử tệ hại trong trường hợp mình không
sống cuộc đời độc thân một cách trung thành. Những người trẻ
này phải có đủ can đảm để tự mình mạnh dạn chọn lựa. Không
ai có thể nói cho ai khác biết sự chọn lựa ấy liều lĩnh như
thế nào.
Tuy nhiên, cần ghi nhận một điều ở đây.
Trong một số trường hợp cha giải tội hay người tư vấn có thể
phải vạch rõ rằng cú liều ấy có thể quá không cân xứng. Mặt
khác, người ta sẽ dễ dàng hơn và yên tâm hơn để quyết định
chọn lựa cú liều ấy nếu những người cầm quyền trong Giáo Hội
có cái nhìn cảm thông hơn khi xảy ra trường hợp có những
linh mục – ở mọi độ tuổi - dù nỗ lực hết sức mình nhưng vẫn
đến lúc nhận ra rằng mình không thể luôn luôn sống đời độc
thân cách trọn vẹn.
Từ kinh nghiệm giảng dạy và giúp tĩnh
tâm cho hàng ngàn linh mục trên khắp thế giới, tôi được biết
rất nhiều linh mục là những người sau một thất bại ban đầu
đã có thể sống đời độc thân linh mục một cách khiêm tốn và
nhiệt thành thực sự. Cũng như trong hôn nhân, sự dấn thân
sống đời độc thân thường sẽ mãnh liệt hơn, hạnh phúc hơn và
đích thực hơn sau một cơn khủng hoảng.
Có nhiều linh mục thực sự rút ra được
hạnh phúc từ cuộc sống độc thân (chứ không phải họ
vẫn hạnh phúc được dù họ sống độc thân!) Cũng có nhiều
linh mục rất hạnh phúc trong đời độc thân song họ có thể
còn hạnh phúc hơn nữa và rực sáng hơn nữa nếu như họ được
phép kết hôn hoặc nếu như họ đã được truyền chức trong tư
cách là những người kết hôn. Có những linh mục có những phẩm
chất nhân bản và tôn giáo tuyệt vời song lại gặp rắc rối về
những vấn đề tính dục, chẳng hạn chuyện thủ dâm – một khó
khăn mà họ không thể vượt qua, bất chấp bao nỗ lực lớn lao
mình đã thực hiện; những linh mục này càng khốn đốn hơn nữa
do bởi thái độ bi thảm hóa một cách quá quắt của Giáo Hội
đối với vấn đề thủ dâm. Thường thì thủ dâm không phải là một
vấn đề luân lý chút nào cả, mà đúng hơn đó là một vấn đề tâm
lý và có liên quan đến hoóc-môn.
Nếu các linh mục được giúp đỡ một cách
thuyết phục để bớt bi kịch hóa những khó khăn của họ, họ có
thể ngạc nhiên nhận ra rằng mình dần dần trở nên được tự do
trọn vẹn. Ngay cả dù điều đó không xảy ra, họ vẫn có thể trở
thành những linh mục tuyệt vời. Một số linh mục thực sự trở
thành những linh mục và những nhà chữa trị tuyệt vời chính
nhờ các vấn đề mà họ phải đương đầu và đang cố gắng vượt
qua. Trong sự hiểu biết và chấp nhận hoàn toàn những yếu
đuối của mình, họ trở nên khiêm tốn hơn, cảm thông hơn và
nhân hậu hơn đối với những người yếu đuối khác. Tôi cho rằng
nhiều người trẻ rất có thể sẽ sẵn sàng hơn để chọn lựa đời
linh mục độc thân nếu như vấn đề thủ dâm không bị thổi phồng
và hiểu sai một cách quá đáng.
Trái lại, một linh mục sống thành công
đời độc thân của mình và có tài năng về giảng dạy, tư vấn
... vẫn có thể bị cám dỗ nếu không bởi tính kiêu hãnh thì
cũng bởi lòng tự tôn. Khi lòng tự tôn này phát triển ngày
càng lồ lộ hơn, vấn đề của ông thậm chí có thể trở thành
nghiêm trọng hơn nữa: ông dễ dàng tiến tới chỗ tự mãn.
Một linh mục vui tính và cởi mở nọ có
lần kể cho tôi nghe cách mà anh ta giải quyết được tính tự
tôn nơi mình. Anh giải thích cho giáo dân của mình rằng việc
phê bình một cách trung thực thẳng thắn là một nhân đức, và
anh cho họ biết rằng lúc nào họ cũng có quyền – thậm chí có
bổn phận – phê bình chủ chăn của họ, đó chính là một hành vi
bác ái. Một giáo dân, thấm nhuần những lời đó của anh, đã
gặp anh vào Chúa Nhật sau đó và nói: “Thưa Cha, nghe bài
giảng của Cha, con cứ tưởng như mình đang nghe chú gà trống
của Thánh Phê-rô đang gáy bài ca tự khoe khoang mình bằng
những ngôn từ hoa mỹ.” Anh bạn của tôi nói rằng anh bị sốc
kinh khủng bởi câu nói ấy, song anh cho biết cũng chính nhờ
đó mà anh đã bước xuống khỏi đỉnh núi cao ngạo của mình.
Trong câu chuyện này và trong những câu chuyện tương tự
khác, tôi tin rằng điều mà nhiều linh mục có thể rút ra là
rằng dù gì đi nữa thì mọi sự cũng đã diễn tiến tốt đẹp.
Độc thân trong so
sánh với một cuộc hôn nhân vô hiệu
Chỉ trong vài thập niên gần đây các
chuyên viên giáo luật và luân lý mới khám phá thấy và chấp
nhận sự kiện rằng rất nhiều cuộc hôn nhân trong Giáo Hội có
thể được tuyên bố là vô hiệu bởi vì, ngay từ đầu, những mối
kết hợp này tự bộc lộ cho thấy là quá yếu ớt và bệnh hoạn
đến nỗi chẳng có mấy cơ hội thành công, ngay cả khi một
trong hai hoặc cả hai bên đều có ý hướng ngay lành. Mặc dù
những đôi bạn này được thấy cũng bình thường thôi, song
trong tính tình, cảm nghĩ và những khía cạnh quan trọng
khác, họ quá khác biệt nhau đến độ hoàn toàn lạ lẫm, và rõ
ràng họ không thể nào vượt qua được những phản ứng “dị ứng”
đối với nhau. Đành rằng chúng ta không phủ nhận những khác
biệt thường là yếu tố giúp cho người ta nên phong phú, song
chúng ta cũng phải thừa nhận rằng một số khác biệt quá lớn
đến nỗi việc sống chung với nhau suốt đời chỉ làm cho đôi
bạn thành bệnh hoạn kinh niên. Từ lâu rồi, Giáo Hội Chính
Thống đã nhận ra rằng điều này hoàn toàn có thể xảy ra, và
rằng những cuộc hôn nhân ấy có thể không những được coi như
đã chết mà thậm chí có thể được coi là không thành sự ngay
từ đầu.
Cũng vậy, điều tương tự có thể xảy ra -
và đã rất thường xảy ra - trong đời sống độc thân không
xì-căng-đan hoặc ít nhất là không có xì-căng-đan nghiêm
trọng. Làm sao một chàng trai hai mươi ba tuổi có thể thấy
trước được hết mọi vấn đề khó khăn thực tế xung quanh đời
sống độc thân của một ông cha sở? Vấn đề càng khó hơn nữa
khi chàng trai này vốn được niêm kín trong hàng rào của tiểu
chủng viện và đại chủng viện, hoàn toàn cách ly khỏi cuộc
sống bên ngoài.
Tất cả chúng ta đều từng biết những câu
chuyện đại loại như một linh mục tốt lành đáng kính nào đó
bỗng dưng làm mọi người phải ngạc nhiên khi ông xin được
giải chức – tức ‘hồi tục’, theo cách nói vẫn còn rất phổ
biến ngày nay. Trong một số trường hợp, đây không phải là
vấn đề độc thân mà đúng hơn đây là một kinh nghiệm thương
tổn thâm sâu mà tôi xin đặt cái tên là “tưởng vậy nhưng
không phải là vậy”. Xin kể ở đây một trường hợp – chắc
hẳn không phải là một trường hợp hi hữu.
Tại bữa ăn chung vào ngày Lễ Giáng
Sinh, ông cha sở độc đoán nọ mắng xối xả anh linh mục phụ tá
hai mươi chín tuổi của mình vì linh mục trẻ này duỗi thẳng
hai cánh tay khi đọc lời nguyện - (anh bắt chước điều này
nơi một vị hồng đáng kính). Cha sở nói: “Anh sẽ biết tay tôi
nếu anh còn tiếp tục làm gương xấu qua việc bất tuân phục
các qui luật thánh của phụng vụ.” Một cách từ tốn, anh linh
mục trẻ lên tiếng: “Bất tuân phục như đức hồng y, giám mục
giáo phận chúng ta, phải không thưa cha?” Câu nói đó quá đủ
để cho cha sở lồng lộn lên, ông phồng mang trợn mắt quát:
“Bổn phận của anh là phải tuân phục luật lệ của Giáo Hội,
chứ không phải là bắt chước một hồng y. Anh chỉ là một linh
mục phụ tá quèn. Anh không là cái thá gì cả, anh hiểu
không?”
Chiều tối hôm ấy, gặp lại nhau chỗ chân
cầu thang, cha sở lại xả cơn hằn học của mình lên cha phụ tá
một lần nữa. Vài năm sau, anh linh mục trẻ này cho tôi biết
rằng đó chính là buổi tối mà anh thủ dâm lần đầu tiên –
không phải để tìm khoái cảm mà chỉ như một cách bày tỏ nỗi
chán nản tột cùng. Rồi, vì anh còn tiếp tục sống ở đó nên
những cuộc ‘đụng độ’ với cha sở vẫn còn tiếp tục - thế là,
anh tiếp tục thủ dâm theo với đà leo thang của nỗi chán nản
trong lòng mình. Anh tìm sự giúp đỡ của một nhà tâm lý trị
liệu; qua trao đổi, vị y sĩ này xác quyết rằng anh cần được
giải phóng khỏi môi trường ngột ngạt và độc hại ấy. Vị y sĩ
khuyên anh xin giải chức, giải thích rằng đó là điều kiện
tiên quyết để mong có cơ hội chữa trị vấn đề của anh.
Nhiều năm sau đó nữa, tôi gặp lại anh.
Lúc này anh đã kết hôn với một phụ nữ duyên dáng và đã có
những đứa con kháu khỉnh. Hơn nữa, anh kể rằng anh đang tham
gia tích cực vào giáo xứ trong tư cách một giảng viên giáo
lý. Quả thật, cả gia đình anh toát ra một tinh thần nhiệt
tâm truyền giáo, và cả nhà đều hạnh phúc. Thế nhưng, tôi vẫn
trằn trọc băn khoăn rằng biết đâu chức linh mục và đời độc
thân của anh đã không bị đánh mất, nếu như anh không vướng
phải những kinh nghiệm nghiệt ngã ấy. Điều gì sẽ xảy ra nếu
như anh đã được trao cho cơ hội sống với những linh mục tốt
lành, những linh mục biết giúp nhau nên phong phú bằng cách
chấp nhận tính cách riêng của mỗi người? Vô số người xung
quanh chúng ta, kết hôn hay độc thân, đã từng là nạn nhân
của những thương tổn tương tự – duy chỉ vì những dị ứng đối
với sự khác biệt trong cá tính.
Luật hiện hành của Giáo Hội Công Giáo
Rôma qui định rằng độc thân là cửa ngõ duy nhất để bước vào
chức linh mục thừa tác. Một luật như thế thật độc hại cho
nhiều người do bởi kinh nghiệm của họ về một “Giáo Hội
khác”, cắm rễ trong những cơ cấu độc đoán và in đậm dấu
những thái độ tiêu cực, những phán xét và những pháp chế từ
trên cao ban xuống. Ở đây tôi không thể không nói lên quan
điểm của mình đối với cách giải quyết trong trường hợp các
linh mục xin được giải chức – một cách giải quyết rất giống
với (đôi khi còn căng hơn) cách giải quyết được áp dụng cho
những người li dị. Nói tắt, đó là cách giải quyết quá hà
khắc!
Tôi đã có dịp trao đổi với Giáo Hoàng
Phao-lô VI về vấn đề này; và tôi nhận ra rằng ngài hết sức
nhạy cảm đối với vấn đề. Thậm chí ngài đã gửi các linh mục
có chuyện rắc rối đến gặp tôi để được tư vấn. Hơn nữa, ngài
hứa sẽ xướng xuất những thay đổi. Cho tới lúc bấy giờ, thỏa
ước giữa Tòa Thánh với chính phủ Ý qui định rằng những linh
mục hồi tục để kết hôn sẽ không được chính phủ cung cấp việc
làm. Theo quan điểm của Giáo Hội, một linh mục đã kết hôn và
có con cái chỉ có thể được nhận vào hiệp thông với Giáo Hội
khi đương sự cung cấp được bằng chứng rằng mình tiết dục
hoàn toàn, sống chung với vợ chỉ như anh em thôi. Nếu vị
linh mục này ‘xé rào’ dù chỉ một lần, đương sự sẽ mắc vạ và
phải được thẩm quyền Tòa Thánh Rôma giải quyết. Giáo Hoàng
Phao-lô VI đã có những thay đổi dứt khoát về vấn đề này.
Ngay đầu triều đại của mình, Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã áp dụng một biện pháp nghiêm ngặt hơn
nhiều so với vị tiền nhiệm. Theo chỗ tôi ghi nhận, các kết
quả chỉ có bi đát hơn chứ không khích lệ chút nào. Thật vậy,
người ta nhận thấy nhiều cựu linh mục kết hôn theo thủ tục
dân sự hay thậm chí chỉ sống chung với người ‘bạn’ của họ mà
không hề có hôn thú theo pháp luật. Một sự kiện khác cũng
nghiêm trọng không kém, đó là tôi nghe một số bạn trẻ nói
rằng họ không còn có đủ can đảm để lãnh chức thánh và sống
đời độc thân linh mục bởi vì họ sợ sẽ gặp lôi thôi lớn nếu
chẳng may sau này họ khám phá ra rằng mình thực sự không thể
sống độc thân được.
Hai nẻo đường khác
biệt
Về mối ràng buộc vĩnh viễn của hôn
nhân, của độc thân, và – quả thật - của toàn bộ đời sống
Kitôhữu, có hai cách nhận hiểu và thực hành rất khác biệt.
Một là nẻo đường của Tin Mừng, từ lăng kính này Thánh
Phao-lô nhìn thấy mọi sự trong nhãn giới của ân sủng Thiên
Chúa. Nẻo đường thứ hai là nẻo đường thiên lệch về luật, về
sự giữ luật và sự kiểm soát bởi luật.
Hôn nhân, như được hiểu từ viễn tượng
ân sủng, có nghĩa là tín thác rằng Thiên Chúa sẽ ban ơn giúp
sức cho người ta để họ dám dấn thân vào giao ước hôn nhân
trong viễn tượng trung thành suốt đời với giao ước ấy. Ngay
cả trong trường hợp gặp những khó khăn và trắc trở, người ở
trong giao ước hôn nhân vẫn không bỏ cuộc. Nói đúng hơn,
cũng như Thiên Chúa tiếp tục không ngừng tín nhiệm trước đối
với đôi bạn, đôi bạn được mời gọi thể hiện cùng một sự quảng
đại và lòng tín nhiệm như thế. Sự tha thứ của Thiên Chúa
được thực hiện bởi việc người ta kêu xin và sẵn sàng cung
ứng sự tha thứ về những lỗi lầm và những vấp ngã của nhau.
Chỉ khi một cuộc hôn nhân trở nên rõ ràng không còn là một
con đường cho hai người chia sẻ ơn cứu độ nữa và trở thành
mối nguy hại lớn cho tính thống nhất và sự lành mạnh của cá
nhân thì lúc ấy hai người mới có thể chia tay – dĩ nhiên vẫn
không bao giờ đánh mất niềm hy vọng rằng rồi sẽ đạt được sự
tha thứ lẫn nhau.
Trong khi đôi bạn không nên bước vào
giao ước hôn nhân một cách nông nổi hay một cách tùy tiện,
thì sự thành công vẫn không hoàn toàn được bảo đảm ngay cả
trong trường hợp họ đã quyết định một cách đầy cân nhắc. Bất
chấp ý hướng ngay lành vào ban đầu, có thể rồi đến một ngày
đôi bạn khám phá ra rằng mối kết hiệp giữa họ đã đổ vỡ không
thể hàn gắn được. Ngay cả lúc ấy, hay phải nói đặc biệt là
lúc ấy, cả hai người cần biết tín thác hơn nữa vào Thiên
Chúa, Đấng luôn rộng ban cho họ khả năng bắt đầu lại và
khích lệ họ xem xét lại toàn cục vấn đề để tìm ra giải pháp
tốt nhất có thể.
Từ nhãn giới nệ luật, hôn nhân được đặt
nền trên một cái nhìn có tính khế ước rằng đó là một bí tích
ràng buộc vĩnh viễn, và sự ràng buộc vĩnh viễn này được tất
định chiếu theo luật. Ngay cả khi rõ ràng một cuộc hôn nhân
đã đổ vỡ và hoàn toàn không thể sửa chữa gì được, “bí tích”
có tính khế ước ấy vẫn treo trên đầu hai người như thanh
gươm của Damocles. Cách diễn giải này về bí tích đã đến lúc
cần phải được dứt khoát loại bỏ.
Sự độc thân, như được hiểu từ viễn
tượng nệ luật, có thể dẫn đến hiện tượng đối xử với một linh
mục vấp ngã như thể anh ta là một kẻ phản bội hay là một kẻ
cùi hủi, thế nhưng vẫn cương quyết buộc anh ta tiếp tục làm
một linh mục chiếu theo luật – ngay cả khi sự việc cho thấy
rành rành rằng luật không hề cứu anh ta. Trái lại, luật ấy
không chỉ làm thương tổn anh ta, mà còn có thể hủy diệt anh
ta nữa.
Tuy nhiên, nếu theo quan điểm đích thực
của Thánh Phao-lô, chúng ta nhận thức đúng đắn rằng mọi
Kitôhữu không còn ở dưới chế độ Lề Luật nữa, nhưng là thuộc
về ân sủng, thì một người cảm thấy mình được mời gọi sống
đời linh mục độc thân sẽ đặt trọn niềm tín thác vào ân sủng
Thiên Chúa, sẽ sống đời sống thấm đẫm cầu nguyện, sẽ bước đi
một cách sáng suốt, sẽ không ngừng tỉnh thức. Tuy nhiên,
chúng ta không thể loại bỏ khả năng rằng rồi một ngày nào
đó, rõ ràng độc thân được thấy không phải là ơn gọi của
đương sự. Trong trường hợp này, đương sự nên được ân cần
khích lệ xin giải chức mà không chút lo sợ bị Giáo Hội trù
dập hay khinh miệt.
Một thoáng nhìn qua hàng ngàn năm
truyền thống Phật giáo sẽ có thể hữu ích cho chúng ta trong
vấn đề này. Trong khi các phật tử rất đề cao đời sống độc
thân, họ cũng hiểu rằng trừ một số trường hợp đặc biệt ngoại
lệ, người ta sẽ không bao giờ đưa ra một lời cam kết không
thể rút lại. Theo một truyền thống Phật giáo, sự độc
thân được sống tạm thời trong một giai đoạn được coi như là
một chuẩn bị tốt cho cuộc sống hôn nhân sau này. Đành rằng
tôi không hề đề xuất việc bắt chước cách thực hành này, tôi
vẫn nghĩ rằng chúng ta nên có một cái nhìn mới mẻ hơn và
nhân văn hơn về truyền thống của chúng ta, nhất là khi các
hoàn cảnh lịch sử đang thay đổi một cách rất thâm sâu và
nhanh chóng.
Độc thân trong bối
cảnh lịch sử
Nhà khoa học lừng danh Marcel Légaut,
một trong nhiều người tự nguyện chọn sống đời độc thân, đã
hùng hồn nhắc cho Giáo Hội ấy rõ giá trị và hoa quả của sự
độc thân vì Nước Trời. Những hoa quả này càng được gặt hái
rõ rệt hơn nếu người ta lưu ý đầy đủ đến toàn bộ bối cảnh
trong đó cuộc sống độc thân được thực hiện. Tuy nhiên, ông
cũng xác nhận – và tôi đồng ý - rằng không bao giờ được phép
hiểu những luật liên quan đến các đặc sủng đặc biệt như là
cái gì có tính vượt thời gian, cơ hồ như chúng là một thực
tại trên trời, nằm ngoài cảnh vực lịch sử không ngừng thay
đổi.
Độc thân linh mục
như một biển báo trên đường
Sự độc thân linh mục – được sống một
cách trung thành và vui tươi – có thể là một sự giúp đỡ và
là một biển báo trên đường cho những ai, vì hoàn cảnh nào đó
của cuộc sống, bị buộc phải sống độc thân, ngay cả dù họ
không tự nguyện chọn lựa như thế. Tôi nghĩ đến những người
li dị và rất nhiều người, nam cũng như nữ, sống đời sống độc
thân hoặc bởi vì không có cơ hội để kết hôn hoặc vì những
khó khăn về sức khỏe không cho phép họ lập gia đình. Cảm
thông với những người không thể kết hôn – đó có thể là một
cách giúp củng cố niềm khao khát nhận hiểu sâu sắc hơn tiếng
gọi độc thân của chính chúng ta. Hơn nữa, chúng ta có thể
học được nhiều điều từ những người độc thân đã biết chấp
nhận cuộc sống không do mình chọn lựa, và những người đã
khám phá ra không chỉ cách tạo ý nghĩa cho đời độc thân của
mình mà cả cách để sống đời độc thân của mình một cách đầy
hiệu quả.
Trong cuộc chiến tranh trước đây ở Nga,
một linh mục đứng tuổi thuộc Giáo Hội Chính Thống Nga đến
gặp tôi để xin giúp đỡ - vì ông bị bệnh. Sau khi chào ông,
tôi hỏi ông câu hỏi xã giao: “Ngài và bà nhà vẫn khỏe chứ?”
Ông trả lời: “Vợ tôi đang ở trên trời; và tất cả các con tôi
cũng không còn. Bây giờ tôi sống hoàn toàn một mình – một
mình với Chúa và cho Chúa.” Khuôn mặt ông rạng rỡ khi ông
thốt lên những lời đó, một cách hết sức đơn sơ chân thành
đến nỗi tôi không nén được niềm cảm kích sâu sắc. Tôi nghĩ
rằng đó là bài giảng ngắn nhất và tuyệt vời nhất trong tất
cả những bài giảng mà mình nghe được về ơn gọi độc thân của
mình.
Nếu các linh mục chúng ta, với ơn Chúa,
có thể sống đích thực đời độc thân của mình, thì tự thân
điều đó có thể là một sứ điệp không lời song đầy sức tác
động đối với nhiều người phải sống độc thân vì họ không có
sự lựa chọn nào khác. Thế nhưng, việc suy tư về ý hướng này
và về giá trị của sự độc thân mà thôi thì không đủ. Sự độc
thân phải đẩy ta tới nhiệt tình cao hơn và sáng kiến mới mẻ
hơn để nâng đỡ những con người độc thân, nam cũng như nữ,
bằng hết sức mình. Ít nhất, chúng ta cũng phải khích lệ họ
sống cuộc sống của họ một cách hiệu quả hơn - bằng cách giúp
họ cảm nghiệm được sự nâng đỡ của cộng đoàn, nhất là bằng
cách tạo các cơ hội cho họ phát triển những tình bạn vững
bền và đầy ý nghĩa.
Độc thân và các vấn
đề dân số
Có một mối nối kết rõ rệt giữa sự độc
thân và vấn đề dân số. Tôi sẽ đề cập đến hai khía cạnh có
liên hệ đến luật độc thân linh mục. Vào thời mà việc thực
hành độc thân và luật độc thân được thấy là điều rất tự
nhiên và phổ biến, thì tình trạng đông dân số chưa phải là
một vấn đề. Con số gia đình thời đó cũng không nhiều, và con
số ấy không dễ tăng lên như trong thời đại công nghiệp và đô
thị hóa. Các gia đình quí tộc, trung lưu và nhất là các gia
đình thuộc tầng lớp nghèo cảm thấy sung sướng khi con cái họ
chọn đời sống trong cộng đoàn tu trì có lời khấn hay chọn
trở thành linh mục triều hoặc dòng. Mặc dù đông dân số không
phải là một vấn đề, nhưng các điều kiện kinh tế lại khiến
cho một số người không thể cưới vợ. Thường đây là tình trạng
của đại đa số các gia đình lớn. Kết quả là, một đời sống độc
thân trong các gia đình lớn được chấp nhận như chuyện bình
thường trong xã hội, và chắc hẳn rằng đời sống độc thân linh
mục đã đóng góp tích cực vào chiều hướng chấp nhận ấy.
Trong thế giới ngày nay, tình trạng
đông dân số rõ ràng là một vấn đề ngày càng gay cấn. Trước
hết, đây là vấn đề bảo toàn các điều kiện trên hành tinh
chúng ta để sự sống có thể tiếp tục. Nói cho ngay, cái đang
lâm nguy nhất là chính trái đất này; và sự sống còn của trái
đất này là điều kiện cần trước hết để nâng đỡ mọi dạng sự
sống. Những ai tự nguyện đảm nhận đời sống độc thân vì Nước
Trời thì cũng đồng thời đang đóng góp một cái gì đó cho
thiện ích chung.
Các vấn đề dân số có thể có một ảnh
hưởng rất lớn đối với việc tuyển người vào đời sống độc thân
linh mục hoặc tu sĩ. Trong những điều kiện hiện nay của xã
hội công nghiệp và hậu công nghiệp Tây phương, quyền kết hôn
được xem như một trong những quyền căn bản nhất của con
người. Tuy nhiên, nền văn hóa hiện đại, nhận thức được các
vấn đề gắn liền với tình trạng đông dân số, có khuynh hướng
ủng hộ mô hình gia đình chỉ với một hay hai con. Trong một
xã hội với những gia đình nhỏ như vậy thì hẳn nhiên việc
tuyển người vào chức linh mục sẽ gay go hơn rất nhiều so với
trong quá khứ.
Trong bối cảnh những khó khăn về dân số
hiện nay, ta thấy rất đáng ghi nhận một số kiểu sắp xếp của
thời trước. Một mô hình đã từng có thời rất quen thuộc, đó
là ông cha sở sống với bà mẹ góa bụa và một vài chị em gái
của ông trong nhà xứ – không chỉ đơn thuần là để họ giúp
việc nội trợ, mà nhất là để cha sở có bầu bạn, có một bầu
khí gia đình. Cũng không nên nghĩ rằng những chị em gái này
tự nguyện từ khước đời sống hôn nhân để phụ giúp cho người
anh (hay em trai) linh mục của mình. Thường thì đấy chỉ là
vấn đề hoặc chọn đi tu hoặc chọn phụ giúp các linh mục bởi
vì đương sự không có cơ hội để kết hôn. Ngày nay, dĩ nhiên,
hiếm khi người ta còn gặp thấy một mô hình như thế.
Hơn hai mươi năm cách đây, khi tôi
giảng dạy cho các giáo sĩ ở Malta, tôi nhận ra rằng ở đó có
một truyền thống các linh mục sống tại gia đình cha mẹ mình.
Họ vô cùng thoải mái và “tự nhiên như ở nhà”! Mô hình này có
một hiệu ứng phụ, đó là các linh mục cảm thấy nỗi mất mát
lớn lao khi phải rời bỏ gia đình để đi phục vụ Tin Mừng tại
một nước khác.
Lần nọ tôi ghé thăm một giám mục ở Ý,
tôi rất ngạc nhiên nhận thấy vị giám mục này không có một
người giúp việc nào cả. Chính ngài phải tự sửa soạn bữa điểm
tâm. Tôi hỏi tại sao như thế; vị giám mục trả lời rằng mặc
dù ngài có đủ khả năng để thuê mướn một người giúp việc,
nhưng ngài quyết định không làm thế, vì đa số các linh mục
của ngài không có khả năng này. Rồi, tiếp tục khen ngợi các
linh mục của mình, ngài nói rằng nhiều người trong họ sống
rất cô độc và dành vô số thời giờ ngồi trước ti-vi.
Một chuyển biến văn hóa khác có liên hệ
đến sự độc thân là một chuyển biến về triết học. Dưới ảnh
hưởng các trường phái triết học khắc kỷ và Platon cổ xưa,
đời sống kết hôn được xem như một cái gì hạ cấp, trong khi
đó việc tiết dục được đánh giá là cao trọng. Một cách lệch
lạc, truyền thống Augustin hậu thuẫn cho quan điểm này, về
sau trở thành giáo huấn luân lý. Ngày nay, rất may là tất cả
thế giới Kitô giáo và đa số các nền văn hóa khác có một cái
nhìn đúng đắn và lành mạnh hơn về tính dục của con người,
xuất phát từ nhãn quan tôn giáo hay những nhãn quan nhân văn
khác.
Một triết học hay một khoa tâm lý một
chiều nhấn mạnh đến sự thành toàn cá nhân thì hầu như không
tìm thấy ý nghĩa trong việc tiết dục. Dĩ nhiên, độc thân
được hiểu trong ánh sáng đức tin thì rõ ràng không chỉ là
vấn đề tiết dục. Trước hết, đó là niềm vui trong Chúa, cùng
với lòng quảng đại phục vụ Tin Mừng vì ích lợi của dân Thiên
Chúa, điều này sẽ trao ý nghĩa thâm sâu hơn cho sự tiết dục,
qua đó làm cho nó trở thành một kinh nghiệm tích cực. Tuy
nhiên, chỉ những người có đức tin sâu xa mới nhận ra được
điều này.
Tìm kiếm các giải
pháp
Không có giải pháp đơn giản nào cho
những vấn đề phức tạp, nhưng người ta có thể vạch ra một số
con đường để cố gắng vượt qua chúng. Một con đường như thế
có liên quan đến vấn đề thời sự về tình bạn giữa các linh
mục ở các giáo xứ gần nhau. Tôi biết một số linh mục tham
gia những nhóm linh đạo như phong trào Focolare, một phong
trào theo mẫu thức của Bartholomew Holzhauser. Những linh
mục này chọn sống trong những cộng đoàn nhỏ gồm ba hay bốn
người, và thậm chí họ được khích lệ bởi các giám mục vốn ủng
hộ mô hình này bằng cách sắp xếp cho họ làm mục vụ tại các
giáo xứ gần nhau.
Cách đây ít lâu, tôi giảng tĩnh tâm cho
hai mươi linh mục vào dịp lễ ngân khánh của họ và tôi nhận
ra rằng tình bạn giữa họ thật tuyệt vời. Tôi rất phấn khởi
khi nghe rằng từ khi thụ phong linh mục, năm nào họ cũng tổ
chức một tuần đi nghỉ hè và cầu nguyện với nhau.
Một linh đạo xây
dựng cộng đoàn
Đối sách tốt nhất cho mối nguy hiểm của
sự cô độc là một linh đạo hướng nội dựa trên giáo huấn vững
chắc của Thánh Gioan Tác Giả Tin Mừng và Thánh Phao-lô –
“Đức Kitô ở trong chúng ta, chúng ta ở trong Đức Kitô.”
Nếu hiểu đúng, nhãn quan linh đạo này không dính dáng gì
tới chủ nghĩa thoát ly thực tế. Cảm nghiệm Đức Kitô ở trong
mình một cách sâu sắc, điều đó sẽ mở ra một chân trời kỳ
diệu cho một tình bạn mở rộng ra với tất cả. Đức Kitô,
Đấng ở trong tôi, yêu tôi và được tôi yêu, sẽ giúp tôi
có thể tháp nhập với Ngài trong tình yêu của Ngài đối với
tất cả anh chị em tôi. Tình yêu và lòng quan tâm của tôi
dành cho họ chính là tình yêu của Đức Kitô trong và xuyên
qua tôi. Và đến lượt họ, sự đáp trả đầy yêu thương của họ là
một phần của chính tình yêu Đức Kitô đối với tôi và đối với
họ.
Thật rõ, mầu nhiệm thâm sâu này là một
cái gì lớn lao ngàn trùng - chứ đây không duy chỉ là vấn đề
liệu pháp chống lại nỗi cô độc. Tuy nhiên, mối nguy hiểm
thật sự của cô độc tự nó cũng đủ giúp chúng ta khám phá ra
và nếm cảm những tinh túy của một linh đạo Thánh Thể. Các vị
chủ tọa tại các buổi cử hành Thánh Thể cần phải thực hiện
được cuộc khám phá và cảm nếm này. Cũng rất cần thiết việc
họ phải mời gọi những người tham dự tự khám phá ra ý nghĩa
ấy trong linh đạo xây dựng cộng đoàn, một linh đạo luôn luôn
tiên vàn được thúc đẩy bởi Thánh Thần, Đấng đưa dẫn ta vào
mầu nhiệm Thánh Thể kỳ diệu. Như thế, độc thân không được
cảm nhận như một hình thức tách ly khỏi các tín hữu. Trái
lại, độc thân - được thể hiện như “sự sống trong Đức Kitô”
và “tình yêu trong Đức Kitô” - chính là chóp đỉnh và trung
tâm của đời sống độc thân linh mục.
Sự mật thiết tuyệt diệu này của sự sống
trong Đức Kitô là phản đề hoàn toàn đối với tinh thần cá
nhân chủ nghĩa. Ở đây không chỉ những gọng cùm của cá nhân
chủ nghĩa bị tiêu diệt, mà mọi khả năng phát triển các mối
quan hệ phong phú, như được diễn tả trong lời nguyện Abba
tại bữa Tiệc Ly, sẽ được thiết lập lại. Sự sống mật thiết
ngày càng hơn trong lời nguyện Abba là một kinh nghiệm về Ba
Ngôi Thiên Chúa và là một kinh nghiệm có sức xây dựng những
nhịp cầu trong nhân loại đã được cứu độ. Chính Đức Giêsu,
Đấng Cứu Chuộc của thế giới và là Con Thiên Chúa, Đấng nhờ
quyền năng của Thánh Thần, đang thưa lên lời Abba nơi chúng
ta – lời Abba ấy sẽ đồng thời vang âm thành Abbuni (Lạy Cha
chúng con). Vâng, Cha là Cha của Chúa Giêsu, và là Cha của
chúng ta hết thảy.
Cảm nghiệm về sự mật thiết theo mẫu
thức Ba Ngôi này sẽ khai phá mọi chân trời của sự liên đới
có sức cứu độ, của cộng đoàn ơn cứu độ, của tình huynh đệ,
và của tất cả. Trong sự mật thiết đó, chúng ta sẽ biết nhìn
nhận và kính trọng nhau như là các con trai con gái của một
Cha chung. Chúng ta cũng nhận ra và trân trọng tiếng gọi mời
chúng ta cùng chia sẻ và cùng trách nhiệm đối với mọi sự
sống thụ tạo. Sức mạnh của mối liên đới này tùy thuộc vào
chiều sâu của sự mật thiết giữa chúng ta. Từ nhận thức đó,
chúng ta thấy rõ ràng các tín hữu được ủy thác cho mình săn
sóc mục vụ không bao giờ là đối tượng (object) của sứ vụ
linh mục. Đúng hơn, chúng ta là một người ở giữa dân
chúng, đón nhận từ họ nhiều không kém chi trao tặng
cho họ. Như vậy, ở đây không có chỗ cho sự tách biệt “ta” và
“họ”. Cùng với nhau, trong tư cách là những chủ thể, tất cả
đồng hành trên con đường với, trong, và hướng về Đức Kitô,
Đấng là xuất phát điểm và là kết điểm của hành trình chúng
ta.
còn tiếp |
VỀ MỤC LỤC |
|
ĐỐI THOẠI VỚI
CỘNG SẢN TRUNG QUỐC |
MẶC GIAO
Ngày 30-06-2007, Đức Giáo
Hoàng Bênêđictô XVI đã gửi cho tín hữu Công Giáo Trung Hoa
một thư khá dài để nói lên sự quan tâm và lòng yêu thương
của Ngài, đồng thời khẳng định những nguyên tắc và giải pháp
nhằm hiệp nhất Giáo Hội Trung Quốc. Tôi không làm công việc
tường thuật và bình luận về lá thư của Đức Thánh Cha. Việc
này có nhiều người làm hay hơn tôi. Tôi chỉ xin nêu một số
điểm trong lá thư có thể coi như những bài học để suy nghĩ
và áp dụng, chẳng những cho Giáo Hội Trung Quốc mà còn cho
Giáo Hội Việt Nam.
Trước hết, về sự liên hệ
giữa Giáo Hội và quyền lực chính trị, tức nhà nước, Đức Giáo
Hoàng nhắc lại những nguyên tắc đã được công bố trong Công
Đồng Vatican II qua Hiến Chế Gaudium et Spes: “Vì vai trò và
quyền hạn của mình, Giáo Hội không thể đồng hóa với bất
cứ cộng đồng chính trị nào, cũng không thể gắn bó với bất cứ
một hệ thống chính trị nào. Giáo Hội là chỉ dấu và là người
bảo vệ chiều kích siêu nhiên của nhân loại... Cộng đồng
chính trị và Giáo Hội tự lập và độc lập với nhau trong những
lãnh vực riêng của mình”.
Về nhiệm vụ xây dựng xã
hội, “Giáo Hội không thể và không phải thay thế nhà nước.
Nhưng đồng thời Giáo Hội cũng không thể và không phải đứng ở
bên lề của cuộc đấu tranh cho công lý. Giáo Hội phải đóng
góp phần mình trong việc đưa ra luận cứ hữu lý và làm thức
tỉnh năng lực tinh thần mà nếu thiếu, công lý luôn đòi hỏi
sự hy sinh, sẽ không thể thắng thế và triển nở ”
(Gaudium et Spes , 76).
Đức Giáo Hoàng tóm kết
phần này như sau: “Dưới ánh sáng của những nguyên tắc
không thể chối bỏ này, giải pháp cho những vấn đề hiện hữu
không thể được theo đuổi bằng việc tranh chấp với chính
quyền dân sự hợp pháp, đồng thời, qua việc tùng phục chính
quyền đó, cũng không thể chấp nhận việc chính quyền can
thiệp vô lý vào những vấn đề liên quan đến đức tin và kỷ
luật của Giáo Hội. Chính quyền dân sự cần hiểu rõ rằng Giáo
Hội, trong giáo huấn của mình, luôn mời gọi các tín hữu trở
thành những công dân tốt, tôn trọng và đóng góp tích cực vào
thiện ích chung của đất nước, nhưng cũng cần phải nói rõ
rằng Giáo Hội đòi hỏi nhà nước phải bảo đảm cho những người
công dân Công Giáo được thực thi đầy đủ đức tin của họ, với
sự tôn trọng quyền tự do tôn giáo chân chính”.
Chỉ với vài trích đoạn
trên đây, chúng ta đã nhìn thấy đường lối và chính sách rõ
rệt của Giáo Hội trong trong vấn đề tương quan cộng tác giữa
Giáo Hội và nhà nước, có thể được tóm tắt trong vài câu ngắn
gọn:
-
Giáo Hội và nhà
nước là những thực thể riêng biệt và độc lập
-
Giáo Hội không gắn
bó cũng không chống đối một chính quyền nào
-
Giáo Hội không làm
giùm chính quyền nhưng không đứng ngoài cuộc tranh đấu cho
công lý
-
Giáo dân phải là
những công dân tốt nhưng dứt khoát phải đòi hỏi nhà nước
không can thiệp vào những vấn đề nội bộ của Giáo Hội, tôn
trọng quyền hành đạo và tự do tôn giáo đích thực.
Về việc bổ nhiệm các giám
mục tại quốc gia công sản, Đức Giáo Hoàng viết: “Như anh
em đều biết, vấn đề tế nhị nhất trong sự giao hảo giữa Tòa
Thánh và chính quyền của quê hương anh em là việc bổ nhiệm
hàng giáo phẩm. Một mặt có thể hiểu đươc rằng chính quyền
rất quan tâm tới việc lựa chọn những người sẽ hành xử một
vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và chăn dắt đoàn
chiên của những cộng đoàn Công Giáo địa phương... Mặt khác,
Tòa Thánh thực hiện việc bổ nhiện các giám mục một cách thận
trọng đặc biệt vì việc này đụng tới đúng tâm huyệt của Giáo
Hội, quan trọng tới nỗi việc Giáo Hoàng bổ nhiệm các giám
mục là sự bảo đảm cho sự hiệp nhất của Giáo Hội và sự hiệp
thông của hàng giáo phẩm. Vì lý do đó, Giáo Luật (Điều 1382)
đã quy định những chế tài nặng nề cả cho giám mục dám tự ý
tấn phong không có ủy nhiệm của Giáo Hoàng lẫn người nhận
chức vị được phong. Việc truyền chức như thế thực sự gây
thương tích đau đớn cho sự hiệp thông của hàng giáo phẩm và
tạo nên một vi phạm trầm trọng kỷ luật được quy định”.
Trong khi cứng rắn về
nguyên tắc như thế, Đức Giáo Hoàng lại tỏ ra nhân từ và
khoan dung với những giám mục của Giáo Hội Ái Quốc (quốc
doanh) Trung Hoa:
“Cuối cùng, có một số
giám mục, một số rất ít, đã được tấn phong không có sự chấp
thuận của Giáo Hoàng, họ cũng không xin hoặc chưa xin được
chịu chức. Theo tín lý của Giáo Hội Công Giáo, họ bị coi như
bất hợp lệ, nhưng đã được truyền chức một cách có giá trị
chừng nào được xác nhận rằng họ được truyền chức bởi những
giám mục đã được tấn phong hợp pháp và nghi thức Công Giáo
của việc phong chức giám mục được tôn trọng. Do đó, dù không
hiệp thông với Giáo Hoàng, họ vẫn thực thi sứ vụ một cách có
giá trị trong việc ban các phép bí tích, dù rằng họ làm việc
này một cách bất hợp lệ. Sự phong phú thiêng liêng sẽ to lớn
biết bao cho Giáo Hội Trung Quốc nếu, những điều kiện cần
thiết được hội đủ, những vị mục tử này cũng sẽ tham gia hiệp
thông với người kế vị Thánh Phêrô và với toàn thể hàng giáo
phẩm Công Giáo”
Đức Giáo Hoàng đã tỏ
thiện chí và thái độ cởi mở để mời gọi và mở đường cho hàng
giáo phẩm Giáo Hội Ái Quốc trở về với đại gia đình Giáo Hội
chính truyền, đồng thời không là bẽ mặt chính quyền Trung
Quốc bằng việc tiếp đón trong tình thương yêu và hòa giải
những chức sắc tôn giáo do họ dựng nên. Dù vậy, chính quyền
Trung Quốc vẫn muốn kiểm soát hoàn toàn giáo hội Công Giáo
trong nước. Theo Đức Hồng Y Joseph Zen của Hồng Kông, những
thành viên của của Hiệp Hội Công Giáo Ái Quốc trong lòng vẫn
hiệp thông với Tòa Thánh, nhưng chính phủ không cho họ tự
do. Đức Hồng Y cho biết, phó chủ tịch Công Giáo Ái Quốc Liu
Bai Nian là người có toàn quyền trong cơ chế này, các giám
mục chẳng là gì cả. Chính ông này là người đứng đằng sau
những vụ truyền chức giám mục bất hợp pháp.
Ngay trong ngày công bố
thư của Đức Giáo Hoàng gửi tín hữu Công Giáo Trung Quốc, Bộ
Ngoại Giao Trung Quốc ra thông cáo có nội dung phản bác
thiện chí của Đức Giáo Hoàng, khuyên Tòa Thánh không nên gây
thêm những trở ngại cho việc tiến tới bang giao, đưa điều
kiện bang giao đòi Tòa Thánh phải
1/ Cắt đứt liên lạc
ngoại giao với Đài Loan,
2/ Không can thiệp
vào việc nội bộ của Trung Quốc
Phát ngôn viên Qin của Bộ
Ngoại Giao phát biểu theo cung cách lưỡi gỗ: “Trung Quốc
hy vọng Vatican nhìn nhận sự việc rằng người Trung Quốc đang
phấn khởi với tự do tín ngưỡng, còn tình hình giáo dân Công
Giáo đã được cải thiện dưới nhiều quan điểm”. Đúng là cùng
thầy, cùng trường. Trung cộng và Việt cộng nói không
khác nhau chút nào. Việc chính phủ Trung Quốc cử hai nhân
viên Bộ Ngoại Giao và Tôn Giáo Vụ đến gặp Đức Hồng Y Phạm
Minh Mẫn vào tháng 3 chắc chỉ để thăm dò lập trường của Tòa
Thánh khi biết Tòa Thánh đang soạn thư gửi tín hữu Trung
Hoa. Sứ mạng trung gian của Đức Hồng Y qủa là gian truân. Dù
Tòa Thánh có cởi mở và mềm dẻo cách mấy, cộng sản vẫn giữ
vững nguyên tắc kiểm soát mọi sự trong xã hội, nhất là tôn
giáo, vì tôn giáo có lòng tin và có tổ chức. Cộng sản có thể
thả lỏng một số biện pháp bề ngoài, nhưng căn bản vẫn là nắm
chặt mọi đường dây chỉ huy trong bàn tay duy nhất của đảng.
Tòa Thánh cũng đâu có dại để rơi vào bẫy “thả mồi bắt bóng”.
Đừng quên vị Giáo Hoàng đương nhiệm là “một ông già gân thứ
dữ”, dám nói thẳng làm thật, lại thêm kinh nghiệm đóng vai
số hai tại Vatican trên hai chục năm, đâu có ngán đối đầu
với sự dữ và với mọi tình huống khó khăn.
MẶC
GIAO
LTS.
Dưới đây là một số ý kiến cũng của tác giả Mặc Giao dành cho
GHVN. Và BBT xin được lược ghi, nghĩa là chỉ giữ lại những ý
chính và quan trọng, ngoài ra BBT không tự ý thêm vào bất cứ
điều gì.
CHUYỂN MÌNH HAY CHỈ
MỚI NHÚC NHÍCH?
Dấu hiệu nhúc nhích được khởi đầu bằng
một bản tin đăng trong điện báo "Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam"
số 44 ngày 28-06-2007, theo đó Ban Thường Vụ (mở rộng) của
Hội Đồng Giám Mục VN đã họp ngày 20 tháng 6 vừa qua tại Sài
Gòn, dưới sự chủ toạ của Đức Cha Nguyễn Văn Hòa, Chủ Tịch
Hội Đồng, với sự có mặt của Đức Hồng Y Phạm Minh Mẫn (Sài
Gòn), Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt (Hà Nội), cùng 11
giám mục khác và hai linh mục thơ ký Nguyễn Ngọc Sơn và Phan
Xuân Thanh. Mục đích chính của buổi họp là bàn về chương
trình nghị sự và những chuẩn bị cho Đại Hội thường niên của
Hội Đồng Giám Mục vào tháng 10 sắp tới. Trong số những quyết
định được đưa ra trong phiên họp này, có một số điều đáng
được ghi nhận sau đây (người viết tự ý đánh số để dễ thảo
luận):
1.
Tìm một phát ngôn viên chính thức của Hội Đồng Giám Mục nhằm
tăng cường cho văn phòng Tổng Thơ Ký,
2.
Ủy Ban Bác Ái Xã Hội theo dõi các hoạt động thời sự, tình
hình xã hội để giúp cho Hội Đồng Giám Mục có thể lên tiếng
trước những vấn đề xã hội,
3.
Ban Thường Vụ cũng bàn về một số vấn đề khác: vấn đề cha
Nguyễn Văn Lý, lập các chương trình kế hoạch đào tạo cho
chủng sinh, các thành phần dân Chúa tham dự trong những hội
nghị của Hội Đồng Giám Mục, vấn đề truyền giáo và giúp đỡ
đồng bào dân tộc thiểu số.
Về điểm 1, Khi Hội Đồng muốn kiếm phát
ngôn viên chính thức có nghiã Hôi Đồng đã quyết định lên
tiếng nhiều hơn trước.
Điểm 2, Hội Đồng giao công tác theo dõi
và lên tiếng về thời sự và xã hội cho một ủy ban, việc chưa
từng có từ trước tới nay. Có người thắc mắc tại sao chỉ có
thời sự và xã hội, còn những vấn đề khác như tôn giáo, nhân
quyền, chính trị thì sao? ...
Điểm 3, Lần đầu tiên Hội Đồng đặt vấn
đề thảo luận vụ cha Nguyễn Văn Lý, Điều lạ khác là dự tính
cho giáo dân tham gia những hội nghị của Hội Đồng Giám Mục.
Có lẽ Hội Đồng muốn chứng tỏ thiện chí lắng nghe quan điểm
và tiếng nói của giáo dân. Ngay Công Đồng Vatican II cũng có
nhiều giáo dân được mời làm cố vấn hay chuyên viên. Vấn đề
là muốn giáo dân tham gia thật tình hay chỉ làm một cử chỉ
đẹp để vỗ về? Giáo dân được mời tham dự là những ai, được
tuyển chọn như thế nào? Mong rằng không phải toàn những
người thuộc loại "con xin phép (được) lậy cha". Hội Đồng
cũng nhắc tới vấn đề truyền giáo và giúp đỡ đồng bào dân tộc
thiểu số. Phải chăng đã đến lúc cần có những biện pháp
nhường cơm xẻ áo cho những anh chị em nghèo đủ thứ, chấm dứt
cảnh xây cất "hoành tráng", xa hoa lãng phí tại những nơi có
nhiều nguồn lợi từ trong và ngoài nước, nhắm mắt làm ngơ
trước sự thiếu thốn và những nhu cầu khẩn thiết của chính
anh chị em mình ở những nơi khác?
Những quyết định
trên đây đã gây niềm hy vọng. Mong sao niềm hy vọng đó được
trở thành hiện thực.
......
Một việc hy hữu nữa là Đức Hồng Y Phạm
Minh Mẫn cho phổ biến một thư đề ngày 10-07-2007 than phiền
giới truyền thông trong nước đã "chí ít" bốn lần loan báo
sai lạc về những hành động và lời nói của ngài và của Đức
Cha Hòa, khiến ngài phải rút ra hậu qủa: "Những kinh nghiệm
đó dần dần biến nhiều người thành Tào Tháo, thường xuyên
sống trong đa nghi và nghi kỵ lẫn nhau".
...
Nếu tuân theo giáo huấn của Giáo Hội,
đặc biệt theo Hiến Chế Lumen Gentium của Công Đồng Vatican
II, Chương IV về vai trò của giáo dân, ta thấy giáo dân được
quyền chia sẻ phần vụ xây dựng Giáo Hội với hàng giáo phẩm
(LG, IV, 30) và hàng giáo phẩm "phải sẵn lòng xử dụng lời
khuyên của giáo dân" (LG, IV, 37)
....
Qua những sự việc kể trên, chúng ta
nhận thấy những lời lên tiếng của giáo dân hải ngoại đã được
đáp ứng một phần, đã tạo dịp cho một số người có trách nhiệm
đặt lại vấn đề thái độ và lương tâm. Hy vọng đây chỉ là
những bước mở đầu. Giáo Hội VN phải chuyển mình, không thể
chỉ nhúc nhích để gọi là có cử động. Chuyển mình để tìm lại
mình, để đổi mới, để tiến về phiá trước, để đưa tay nối kết
với cộng đoàn dân Chúa khắp nơi, từ trong ra ngoài nước, để
tạo tình đoàn kết và sức mạnh xây dựng Giáo Hội và quê
hương. Chúng ta không tuyên chiến với ai, nhưng không sợ hãi
trước những đe dọa của những thế lực bất chánh. Một số quyền
lợi và tiện nghi có thể mất đi, nhưng sự đền bù sẽ to lớn
gấp bội. |
VỀ MỤC LỤC |
|
Nước, lửa và sự chia rẽ |
(Lc
12, 49-53)
Hành trình lên Giêrusalem
của Chúa Giêsu quả là một cuộc phiêu lưu và mạo hiểm. Chính
vì thế, Chúa Giêsu đã không ngần ngại đề cập đến những thử
thách, những nguy cơ và số phận của những ai mạo hiểm bước
theo Người. Rồi đây những ai bước theo Chúa Giêsu không thể
không bước qua những gian nan khốn khổ, những bách hại như
Người đã đi qua…
Tâm sự với các môn đệ,
Chúa Giêsu thao thức về ngọn lửa mà Người đem đến thế gian
phải chi đã bùng lên để kiện toàn thế nhân. Chúa Giêsu muốn
tâm sự với các môn đệ về ngọn lửa nào đây?
Rất có thể đây là ngọn
lửa phán xét của Thiên Chúa công minh chính trực. Kinh thánh
nói nhiều đến sự hiện diện của Đấng sẽ đến xét xử trần gian
là Đức Kytô. Thật thế, trọn đời sống cùng với những giáo
huấn của mình, Chúa Giêsu đã “ném” vào thế gian ngọn lửa
vạch trần những mưu mô thâm độc của ác thần, những áp bức
bất công, những mâu thuẫn xảy ra trong đời sống con người.
Tất cả những điều ấy như những tiếng chuông cảnh tỉnh lòng
người, giúp họ sớm quay về nẻo chính đường ngay mà phụng sự
Thiên Chúa.
Ngọn lửa đó cũng có thể
là ngọn lửa của tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa là tình yêu.
Và Người hằng tha thiết mong chờ con người đáp lại tình yêu
đó bằng ngọn lửa nồng cháy. Ngọn lửa tình yêu đó chính là
đời sống đức tin, đời sống chứng nhân Tin mừng. Thiên Chúa
ước mong ngọn lửa tình yêu đó ngày một cháy lên trong tâm
hồn mọi tín hữu để danh Chúa được hiển vinh.
Sau hết, đó cũng là ngọn
lửa của Thần Khí Thiên Chúa đến hâm nóng Giáo hội trong ngày
lễ Ngũ Tuần. Thật thế, Hội thánh Chúa khai sinh trong ngày
Chúa Thánh Thần hiện xuống- ngày mà các môn đệ đón nhận Chúa
Thánh Thần dưới hình lưỡi lửa ngự xuống trên đầu các ông.
Nhờ ngọn lửa này, Giáo hội Chúa ngày một lan rộng khắp hoàn
cầu và sẽ còn lan rộng mãi cho đến ngày Chúa lại đến.
Liền sau đó, Chúa Giêsu
nói đến phép rửa mà Người sắp phải chịu. Hành trình lên
Giêrusalem của Chúa chính là để lãnh nhận phép rửa này. Phép
rửa đó chính là giờ phút Người sẽ trải qua trong giờ tử đạo.
Đồng thời, phép rửa này cũng là cuộc vượt qua không chỉ cho
Chúa Giêsu mà còn cho các môn đệ cũng như cho hết những ai
bước theo Người. Những ai theo Chúa trong đức tin không thể
không uống chén đắng mà Chúa sẽ uống và chịu phép rửa mà
Người sẽ phải chịu trong ngày khổ nạn. Như thế đã rõ, những
gì Chúa Giêsu phải trải qua trong sứ vụ của Người, đến lượt
những ai tiếp bước theo Người, cũng sẽ trải qua những thử
thách như thế trên lộ trình họ sẽ bước qua.
Sau hết, Chúa Giêsu đề
cập đến sự “chia rẽ” mà Người sẽ mang đến cho trần gian.
Điều xem có vẻ nghịch lý trong câu nói của Chúa Giêsu nhưng
lại là chân lý cho những ai chấp nhận giáo huấn và bước theo
đời sống của Người. Thật vậy, bình an mà Chúa Giêsu nói đến
không phải là thứ bình an dễ dãi theo kiểu trần thế mà các
ngôn sứ giả không ngừng loan báo. Đó là bình an của nước
Thiên Chúa và con người chỉ có thể đạt đến thông qua khổ
giá. Con người được kêu mời lựa chọn thái độ sống của mình
đối với Chúa Kytô. Họ có thể bước theo hoặc chống lại đường
lối của Chúa. Và, sự lựa chọn này chắc chắn sẽ gây ra sự
chia rẽ ngay trong chính gia đình, trong mỗi cộng đoàn. Ngay
chính con người và giáo huấn của Chúa Giêsu cũng trở thành
“cớ” gây nên sự chia rẽ và xáo trộn. Thật thế, nếu lời giáo
huấn của Chúa làm cho nhiều người tội lỗi tin theo thì bao
nhiêu ông Pharisêu lại ra sức chống đối Người bấy nhiêu; lời
giảng của Người về vấn đề giàu nghèo, công bình xã hội được
giới bần nông ủng hộ bao nhiêu thì các phú hộ giàu có lại
nổi giận, xa lánh Người bấy nhiêu. Hơn ai hết, các môn đệ
cũng như Giáo hội tiên khởi đã nếm trải kinh nghiệm này khi
họ từ bỏ Dothái giáo để bước theo Chúa Kytô, họ đã bị gia
đình, bạn bè, láng giềng thù ghét thoá mạ. Chắc một điều, vì
Chúa Kytô, Giáo hội Chúa vẫn còn và sẽ mãi còn những kiểu
“chia rẽ” như vậy.
Khi cổ võ cho hoà bình và
công lý, khi cố gắng để xây dựng bình an đích thực trong
trái tim con người, môn đệ Chúa Kytô có thể sẽ bị thế gian
thù ghét và gán cho tội danh là kẻ phản nghịch. Nhưng chúng
ta hãy an tâm và tin tưởng. Vì chính sự thù ghét của thế
gian lại là phần thưởng nước trời cao quý nhất mà Chúa muốn
ban tặng cho chúng ta trong đời sống mai sau.
Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn, Csjb |
VỀ MỤC LỤC |
|
TÌNH YÊU KHÔNG NGHĨ
ĐIỀU XẤU |
(Tác Phẩm
13 Nét Mặt Tình Yêu)
Lm. Micae-Phaolo
Trần Minh Huy chuyển ngữ
Chương Chín
TÌNH YÊU KHÔNG NGHĨ ĐIỀU XẤU
1. Tình yêu là từ tâm :
Sự từ tâm mà thánh Phaolô liệt kê trong Gal 5,22 là một hoa
quả tốt đẹp của Thánh Thần :
"Còn hoa quả của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình
an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết
độ. Không có luật nào chống lại những điều như thế" (Gal
5,22).
Tất cả chúng ta đều có lúc gặp được những con người mà tấm
lòng thực sự là từ tâm, khoan dung. Họ luôn luôn tìm thấy
nơi ông nầy bà nọ mà chúng ta thấy cách thiên lệch những đức
tính tiềm ẩn vụt khỏi chúng ta. Họ nhìn thấy điều tốt ... và
chỉ nổ lực để nhấn mạnh hơn rằng chúng ta đã muốn thấy điều
xấu trước hết.
Tình yêu của Thiên Chúa là từ tâm. Ngay từ đầu thư gởi Tín
hữu Êphêsô, thánh Phaolô đã :
"Chúc tụng Thiên Chúa là Thân phụ Đức Giêsu Kitô
Chúa chúng ta. Người đã thi ân giáng phúc cho chúng ta hưởng
muôn vàn ơn phúc của Chúa Thánh Thần... Người cho ta được
biết thiên ý nhiệm mầu : thiên ý nầy là kế hoạch yêu thương
Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian
tới hồi viên mãn là qui tụ muôn loài trong trời đất dưới
quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Ep 1,3.9-10).
Niềm vui của chúng ta là để mình bị tình yêu từ tâm nầy bắt
lấy, đưa vào trong những kế hoạch khoan dung của Thiên Chúa
và cộng tác vào đó với tất cả sự dấn thân tự do của chúng
ta. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Philipphê :
"Ấy vậy, là những người luôn vâng phục, khi tôi có mặt
cũng như nay vắng mặt, anh em hãy biết run sợ mà gắng sức lo
sao cho mình được cứu độ. Vì chính Thiên Chúa tác động đến ý
chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương của
Người. Anh em hãy làm mọi việc mà đừng kêu ca hay phản
kháng" (Phil 2,12-14).
Vậy chúng ta không ngạc nhiên thấy thánh Phaolô đặt sự từ
tâm vào đúng chỗ những hoa trái của Thánh Thần mà các môn đệ
Chúa Kitô phải biểu lộ ra. Chính vì thế Ngài viết cho Titô,
người đại diện trung tín của Ngài :
"Anh hãy nhắc nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân
lệnh các nhà chức trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng
làm mọi việc tốt và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng
phải hiền hòa, luôn luôn tỏ lòng nhân từ với mọi người. Thật
vậy, cả chúng ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không
vâng lời, lầm lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc,
sống trong gian ác và ghen tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn
nhau" (Tt 3,1-3).
"Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa,
hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương
cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại" (Col 3,12).
"Lòng từ tâm là một thứ khởi đầu thuận lợi trong tương
quan với những ai chúng ta gặp gỡ, trong mọi hoàn cảnh chúng
ta sống. Do đó chúng ta phải học biết "đón nhận những lời
nói và hành động của tha nhân đúng như chúng đang diễn ra,
không tìm cắt nghĩa khác đi, nhưng với một thứ thông đạt
ngây thơ loại bỏ nghi ngờ, song phục hồi được lòng tín nhiệm
trong sáng"[1]
2. Tình yêu không đoán xét :
Chúa Giêsu đòi hỏi cách rõ ràng đừng xét đoán :
"Anh em đừng xét đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán,
vì anh em xét đoán thế nào thì anh em cũng sẽ bị Thiên Chúa
xét đoán như vậy; và anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa
cũng sẽ đong bằng đấu ấy cho anh em. Sao anh em thấy cái rác
trong mắt của người anh em mà cái xà trong mắt mình thì lại
không để ý tới ?... Hỡi kẻ đạo đức giả, hãy lấy cái xà khỏi
mắt mình trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra
khỏi mắt của người anh em"
(Mt 7,1-5).
Chính Chúa Giêsu đã không kết án ai cả (x. Jn 8, 2-12 nói về
người đàn bà ngoại tình). Ngài báo trước cho chúng ta :
"Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng
nhân từ. Anh em đừng xét đoán thì anh em sẽ không bị Thiên
Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án thì sẽ không bị Thiên Chúa
lên án. Anh em hãy tha thứ thì sẽ được Thiên Chúa thứ tha.
Anh em hãy cho thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong
cho anh em đấu đủ lượng, đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào
vạt áo anh em, vì anh em đong bằng đấu nào thì Thiên Chúa sẽ
đong lại cho anh rm bằng đấu ấy" (Lc 6, 36-38).
Thánh Phaolô nhấn mạnh yêu sách nầy một cách cũng rất cương
quyết :
"Dù bạn là ai đi nữa mà bạm xét đoán thì bạn cũng
không thể tự bào chữa được. Vì khi bạn xét đoán người khác
mà bạn cũng làm như họ thì bạn tự kết án chính mình"
(Rm 2, 1).
Những lời nói xấu mà chúng ta có thể tung ra lẫn cho nhau
đối với Chúa Giêsu cũng nghiêm trọng như là giết chết lẫn
nhau vậy : thứ bạo lực nầy đòi hỏi phải được hòa giải trước
khi tiến lại gần Chúa :
"Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng 'chớ giết
người', ai giết người thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy
bảo cho anh em biết : Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra
tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước
Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em là quân phản đạo thì
đáng bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ
vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện
bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi
làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của
mình" (Mt 5, 21-24).
Thánh Giacôbê trong thư của ngài đã nói toạc ra về cái lưỡi
đầy nọc độc chết người : "Anh em đừng nói xấu
nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình là nói xấu và xét
đoán Lề Luật. Nếu anh xét đoán Lề Luật thì anh không còn là
kẻ vâng giữ mà là kẻ xét đoán Lề Luật. Chỉ có một Đấng ra Lề
Luật và xét xử, đó là Đấng có quyền cứu thoát và tiêu diệt.
Còn anh là ai mà dám xét đoán người thân cận ?" (Jc 4,11-12).
Chúng ta thấy được con đường còn phải trải qua... Ngay từ
cảm tưởng tức thời mà đã rút ra lời phán quyết chung cục là
một lỗi nặng. Việc đó giam chặt tha nhân trong một thái độ
không có gì là bền vững. Chúng ta cần phải từ chối "dán nhãn
hiệu" cho người khác và phải luôn canh chừng để cho tương
lai được luôn rộng mở... Không những tình yêu không giải
thích về phía xấu, mà còn phải luôn luôn giải thích về phí
tích cực nhất.
Chị Céline của Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu thuật lại rằng
:
"Têrêsa thường nói với tôi rằng chúng ta phải luôn luôn
phán đoán tha nhân với lòng bác ái, bởi vì rất thường xảy ra
là cái gì xem ra cẩu thả nơi mắt chúng ta thì lại là anh
hùng nơi mắt Chúa. Một người đang mệt mỏi, bị nhức đầu hay
phải khổ đau trong tâm hồn, chỉ hoàn thành được một nửa công
việc lại làm nhiều hơn một người khác, đang được tráng kiện
thể xác và tinh thần minh mẫn, làm trọn vẹn cả công việc.
Vậy trong mọi trường hợp, xét đoán của chúng ta phải thuận
lợi cho tha nhân. Phải luôn luôn nghĩ tới điều tốt, phải
luôn luôn biện giải cho người" (CSG, 107).
3. Tình yêu tha thứ :
Bản dịch động từ thánh Phaolô dùng cho ta có hai hướng suy
nghĩ :
·
Thứ nhất : Tình yêu không nghĩ đến điều xấu, không
giải thích về phía xấu.
·
Thứ hai : Tình yêu không để ý đến điều xấu, không
duy trì mối hiềm thù, không dừng lại ở điều xấu, không để ý
đến điều xấu đã phải chịu đựng.
Thái độ độc đáo của tình yêu là thái độ đã trao ban ngay từ
đầu bài ca bác ái: lòng hào hiệp. Tình yêu có con tim cao
thượng : nó không hề tính đếm những xúc phạm người ta đã làm
cho nó. Chúa Giêsu đã có lời dạy rất rõ ràng về đề tài nầy :
"Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh thì anh
hãy khiển trách nó, nếu nó hối hận thì hãy tha cho nó. Dù nó
xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần nó trở
lại nói với anh : 'Tôi hối hận' thì anh cũng phải tha cho
nó" (Lc 17, 3-4).
Cũng chính yêu sách nầy đã được đặt ra cho Phêrô khi ông hỏi
Chúa Giêsu :
"Thưa Thầy, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con thì
con phải tha đến mấy lần ? Có phải đến bảy lần không ? Chúa
Giêsu đáp : 'Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy
mươi lần bảy'" (Mt 18,21-22).
Giữ mãi trong ký ức điều xấu đã phải gánh chịu, cảm nhận nó
dù mình không muốn, không ngừng trách móc cùng những chuyện
ấy bởi vài lời châm chọc cố ý... đó là một thái độ có thể
xuất phát từ một vết thương nội tâm, nhưng cũng có thể do
một sự thiếu tha thứ, hay nói một cách khác là bởi một mối
hiềm khích dai dẳng, dù không muốn thú nhận ra như thế.
"Cộng đoàn là nơi của tha thứ. Bất chấp tất cả sự tín
nhiệm người ta có thể có đối với nhau, vẫn luôn luôn có
những lời nói gây thương tổn, những thái độ kẻ cả, những
hoàn cảnh đáng ngờ vực. Chính vì thế, việc sống chung bao
hàm một thứ thánh giá nào đó, một sự cố gắng liên lĩ và một
sự chấp nhận tha thứ cho nhau mỗi ngày. Thánh Phaolô đã nói
: 'Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến
thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm,
nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và
tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người nầy có điều gì phải
trách móc người kia. Chúa đã tha thứ cho anh em thì anh em
cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau'" (Col 3, 12-13).
"Một trong những tội lớn nhất trong một cộng đoàn có lẽ
là một hình thức của buồn phiền và ủ ê. Người ta dễ dàng
đóng khung trong mấy người bạn để chỉ trích kẻ khác, nói
rằng 'chán ngấy rồi', 'mọi thứ đều tồi tệ', 'không còn như
trước nữa'. Trạng thái tinh thần nầy là một thứ ung nhọt
thực sự có thể lây lan ra toàn cơ thể"[1]
Chính vì thế, tất cả những khuyến cáo của thánh Phaolô đều
hữu ích cho sự hoán cải các thái độ xã hội của chúng ta.
Ngài nói với chúng ta như thế nầy :
"Anh em phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương
xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho
anh em trong Đức Kitô" (Ep 4,32).
Có người sẽ bảo "tôi không nhận thấy mình có kẻ thù...".
Nhưng rõ ràng khi Chúa Giêsu truyền lệnh yêu thương kẻ thù
thì Ngài muốn nói đến những người chung quanh chúng ta mà
chúng ta biến thành kẻ thù vì đã
dửng dưng với họ...
"Anh em hãy yêu thương kẻ thù, hãy làm ơn và cho vay
mà chẳng hy vọng được đền trả. Như vậy, phần thưởng dành cho
anh em sẽ lớn lao, và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao, vì
Người vẫn nhân hậu với cả phường vô ân và quân độc ác" (Lc
6,35).
4. Tình yêu không báo thù :
"Trong khi liệt kê các công việc của xác thịt (x.Gal 5,19-21),
thánh Phaolô làm sáng tỏ các yêu sách của đức ái, từ đó mà
phát sinh các bổn phận cụ thể đối nghịch lại các khuynh
hướng của 'con người cầm thú', nghĩa là nạn nhân của các dục
vọng của mình. Đặc biệt là tránh ghen tương và ham muốn,
muốn điều tốt cho tha nhân; tránh những hiềm khích, bất hòa,
chia rẻ, chống đối, bằng cách thăng tiến tất cả những gì đưa
tới hiệp nhất. Câu thơ của thánh Phaolô trong bài ca đức ái,
theo đó đức ái "không nghĩ tới điều xấu" (I Cor 13, 5), ám
chỉ đến điều đó. Thánh Thần gợi lên lòng quảng đại tha thứ
đối với những xúc phạm đã nhận và những thiệt hại phải chịu,
và làm cho các tín hữu có khả năng làm như vậy, và vì là
Thánh Thần ánh sáng và tình yêu, Thánh Thần giúp các tín hữu
khám phá ra những yêu sách không giới hạn của đức ái"[1]
Một đoạn Phúc Âm minh họa tính ưa quyền lực và thống trị nầy
có mặt bên trong ước muốn trả thù nầy. Các môn đệ Chúa Giêsu
vào một làng Samaria, ở đó các ông muốn chuẫn bị trạm nghỉ
đêm cho Chúa Giêsu đang đi sau :
"Nhưng dân làng không tiếp đón Người, vì Người đang
đi về hướng Giêrusalem. Thấy thế, hai môn đệ Người là ông
Giacôbê và ông Gioan nói rằng : 'Thưa Thầy, Thầy có muốn
chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không
?' Nhưng Đức Giêsu quay lại quở mắng các ông : "Các con
không biết mình thuộc về tinh thần nào". Rồi Thầy trò đi
sang làng khác" (Lc 9, 53-56).
Tình yêu Phúc Âm đòi hỏi phải giao lại cho Thiên Chúa những
tình huống trong đó người ta muốn tự mình đem lại công bằng
cho mình và uốn nắn lại những điều lỗi người khác làm cho
mình. Sự bình an tâm hồn và chứng tá đều phải trả bằng cái
giá ấy :
"Khi chúng ta không được hiểu và bị xét đoán một cách
bất lợi, thì liệu có ích gì để tự bênh vực, để tự giải thích
không ? Chúng ta hãy để những thứ đó rơi xuống đi, đừng nói
gì hết. Thật là khỏe khoắn khi chẳng nói gì, khi để mặc cho
người ta muốn phê phán gì thì phê phán !... Ôi sự thinh lặng
diễm phúc đã mang lại bình an biết bao cho tâm hồn"[1]
Suy niệm để lần
hạt Mân Côi
1. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh hãy nhắc
nhở cho ai nấy phải phục tùng và tuân lệnh các nhà chức
trách, các người cầm quyền, phải sẵn sàng làm mọi việc tốt,
và đừng chửi bới ai, đừng hiếu chiến, nhưng phải hiền hòa,
luôn luôn có lòng nhân từ với mọi người. Thật vậy, cả chúng
ta nữa, xưa kia chúng ta cũng ngu xuẩn, không vâng lời, lầm
lạc, làm nô lệ cho đủ thứ đam mê và khoái lạc, sống trong
gian ác và ghen tị, đáng ghét và ghen ghét lẫn nhau" (Tt
3,1-3). Lạy
Chúa, xin ban cho chúng con một quả tim nhân hậu.
2. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh em là những
người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương.
Vì thế anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu,
hiền hòa và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu
trong anh em người nầy có điều gì phiền trách người kia.
Chúa đã tha thứ cho anh em thì anh em cũng vậy, anh em phải
tha thứ cho nhau" (Col
3, 12-13). Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tinh thần nhân
hậu, hằng tỏ ra thuận lợi cho tha nhân trong mọi hoàn cảnh.
3. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Anh em đừng xét
đoán để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán...Hỡi kẻ đạo đức giả !
Hãy lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi anh sẽ thấy rõ,
để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em" (Mt 5, 1. 5). "Anh
em đừng nói xấu nhau. Ai nói xấu hoặc xét đoán anh em mình
là nói xấu và xét đoán lề luật... Vậy anh là ai mà dám xét
đoán người thân cận ?" (Jc 4,
11-12). Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con khỏi ý muốn quyền
lực thường tỏ lộ ra qua tinh thần xét đoán nầy.
4. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Thưa Thầy, nếu
anh em con cứ xúc phạm đến con thì con phải tha đến mấy lần
? Có phải đến bảy lần không ? Chúa Giêsu đáp : Thầy không
bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy" (Mt 18,
21-22).
"Anh em phải đối xử tốt với nhau, phải có
lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã
tha thứ cho anh em trong Đức Kitô"
(Ep 4, 32). Lạy Chúa Thánh Thần, xin gợi lên trong chúng con
tinh thần tha thứ không ngừng.
5. Tình yêu không nghĩ đến điều xấu. "Hãy yêu thương
kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em, hãy chúc lành cho kẻ
nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai
vả anh má bên nầy thì hãy giơ cả má bên kia nữa" (Lc 6,
27-29).
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tha thứ cho các lý hình, xin ban cho
chúng con ơn tha thứ cho kẻ thù của chúng con và từ chối mọi
thứ trả thù.
|
VỀ MỤC LỤC |
|
Cuộc đua với tử thần |
“Cuộc đời mọc lên
và ngắt đi như một bông hoa”
Kinh Thánh
Tạo hóa dường như rất hay đùa bỡn với
số phận của con người. Có những người dư thừa đủ thứ: sức
khỏe sung mãn, tài năng tràn trề, của cải giàu nứt đố đổ
vách, con cháu đầy đàn vui vẻ sum vầy… ấy thế lại có những
người Thượng Đế đầy họ vào bể khổ để đợi đến ngày nghe tiếng
gọi của Người. Có vẻ hợp với câu: “Đời là bể khổ!”.
Một trong những nơi hiện thân của cái
triết lý đời đó chính là cái Xóm Chạy Thận ở giữa lòng Hà
Nội.
Phố Lê Thanh Nghị giống như bao khu phố
mới sầm uất của thủ đô.
Mặt phố là những khối nhà 4-5 tầng xây
dựng mới tinh, khá hiện đại. Phần lớn là những cửa hàng sầm
uất bày bán đủ thứ từ máy tính, điện thoại, thời trang, đến
cà phê, bia hơi giải khát v.v sớm tối nườm nượp khách hàng.
Phía sau cái lớp giàu sang rất mỏng ấy
là cả một khối chằng chịt những ngõ ngách ngoằn ngoèo, chật
trội, tinh những người là người. Trong những ngõ đó có “xóm
chạy thận”, nơi tá túc của hơn 200 con người đủ mọi hoàn
cảnh, lứa tuổi từ tứ xứ đổ về. Họ giống nhau, thứ nhất là
đều mắc trọng bệnh: suy thận mãn phải lọc máu nhân tạo, thứ
hai họ đều rất nghèo. Cũng có thể, có những người khá giả
mắc bệnh hao tiền tốn của rồi mới nghèo, nhưng cũng có người
nghèo, mắc trọng bệnh để rồi nghèo hơn…Không thể phân biệt
rạch ròi được ai là ai trong số họ, bởi bây giờ thì họ đều
nghèo khổ giống nhau.
Xóm “chạy thận” hình thành cũng có cái
lý do của nó.
Cách đây hơn chục năm, ở Hà Nội nói đến
trung tâm lọc máu, chỉ có Bạch Mai là số một. Cũng vì thế mà
bệnh nhân cả nước đổ hết về đây. Cái mảnh đất ao muống bên
đường, chỉ bước nhanh dăm bước chân là vào đến cổng viện,
bỗng trở nên đắc địa với những người đã nhận án chung thân
với những chiếc máy lọc máu. Họ tập hợp về đây, ban đầu chỉ
lèo tèo vài người, thế rồi họ rỉ tai nhau: “nhà trọ gần bệnh
viện giá bèo”. Mọc lên một xóm mà cư dân đa số là bệnh nhân
thận. Đúng là mảnh đất hội đủ thiên thời-địa lợi-nhân hòa.
Một nguyên tắc sống bất di bất dịch ở
đây là mọi cư dân trong xóm đều phải “chạy” để sống.
Chạy đua từng ngày, từng giờ để sinh tồn. Nếu họ ngừng chạy
vì bất cứ lý do gì ví như không đủ sức để chạy, không đủ
tiền để chạy nữa, thì gần như ngay lập tức, cuộc sống của họ
cũng chấm dứt.
“Lão làng” của xóm là một cô gái trẻ có
cái tên rất duyên dáng: Nguyễn Thị
Hồng Công.
Gọi là lão làng vì tuổi đời cô chưa tới
30 nhưng đã có 1/3 quãng đời ở cái tuổi đôi mươi đẹp nhất,
chạy đua ở cái xóm này. Một thập kỷ ở đây, cũng có thể coi
Hồng Công là người duy nhất thuộc lứa cư dân đầu tiên của
xóm thận còn sống sót đến hôm nay. Mỗi năm
xóm có chừng 5 cư dân qua đời, coi như vị “trưởng
lão” chưa đến 30 tuổi đã dự tới hơn 50 đám ma trong 10 năm
thường trú ở xóm.
Mười năm trong cuộc đua giành giật sự
sống đã mang lại không ít kinh nghiệm.
Thưở ban đầu, thiết bị lọc máu còn hạn
chế, bệnh nhân trụ được lâu nhất là 2 năm. Lứa 2 năm đầu
tiên của xóm ra đi sang thế giới bên kia, ấy thế nhưng cô bé
Hồng Công chẳng hiểu sao lại vẫn trụ lại được. Phải chăng do
sức lực thanh xuân ở tuổi 18 đôi mươi, hay do số phận đã
chọn cô làm người chứng kiến sự sinh tồn ở xóm thận này?
Gia cảnh của Hồng Công khá điển hình
như nhiều gia đình thôn quê khác.
Bố là bộ đội hy sinh trong chiến tranh
biên giới 1979, khi đó Hồng Công mới 3 tháng tuổi. Mẹ, một
người nông dân hiền lành chất phác, đi bước nữa, theo chồng
mới vào lập nghiệp tại Hà Tĩnh.
Hồng Công được bà ngoại nuôi dưỡng.
Xinh xắn, chăm chỉ học hành, nhưng số phận đã đưa đẩy cuộc
đời cô bé ngoặt sang một hướng khác. Năm 14 tuổi, cô
bé mắc phải căn bệnh viêm cầu thận cấp, dẫn đến suy thận.
Và từ đó cuộc đời của cô bắt đầu gắn
liền với bệnh viện.
Bệnh viện đầu tiên Hồng Công làm quen
là Bệnh viện Nhi Trung Ương. Cô được bố mẹ đưa lên điều trị
tại đó 3 tháng, sau khi bệnh tình đã thuyên giảm cô lại tiếp
tục theo học cấp II còn đang dang dở. Mỗi tháng 1 lần, cô
học sinh nhỏ phải vào bệnh viện để làm các xét nghiệm, kiểm
tra sức khỏe và dùng thuốc theo chỉ định.
Ngày thi tốt nghiệp cấp III, ngay sau
khi đặt bút viết những dòng cuối cùng vào giấy thi, Hồng
Công đã phải lên xe cấp cứu chạy thẳng vào bệnh viện Bạch
Mai. Kể từ đó cô là thân chủ trung thành của viện. Như lời
tâm sự của cô: “Nếu như ra khỏi đây, chỉ có ra đi mãi mãi
mà thôi”.
Cuộc sống của một bệnh nhân suy thận
phải lọc máu nhân tạo có những đặc thù riêng. Mỗi tuần Hồng
Công phải vào lọc máu ba lần. May mắn Hồng Công là con liệt
sĩ, nên được bảo hiểm trả y phí, nhưng phải mua thuốc trợ
tim, hạ huyết áp…cần thiết cho việc lọc máu và cả chục thứ
thuốc bệnh khác. Bình thường, mỗi lần lọc máu tốn 400.000
đồng, vị chi là 4,5 triệu một tháng cho cả lọc máu lẫn thuốc
thang, một số tiền ước mơ của rất nhiều người lao động khỏe
mạnh, thậm chí cả những người được học hành tử tế. Trong
trường hợp nếu không có tiền thì… mọi thứ chấm dứt!
Nhưng không chỉ có vậy, “bệnh lại đẻ ra
bệnh”.
Hồng Công bây giờ đã quá quen với bệnh
khắp người. “Cháu có đủ thứ bệnh, bác ạ”, Hồng Công
cho biết. Nào là hậu quả của Lupus ban đỏ, u xương khớp (4
năm) đau khớp, viêm khớp hệ thống; mắt (4 năm) mờ (4/10)
viêm giác mạc; Điếc tiếp nhận 2 tai. Suy tim độ cuối.
Đau dạ dày, đại tràng co thắt. viêm thần kinh ngoại
vi, u nhũ hoa lành tính…v.v Ngoài Bạch Mai là chỗ
chung thân ra, cô là “khách quen” của Bệnh Viện K, viện Mắt
Trung Ương, Tai Mũi Họng, Cấp Cứu 115…v.v
Dài theo thời gian là sự đau đớn về thể
xác, mệt mỏi tinh thần. Của nả trong nhà bố mẹ đã đội nón
ra đi hết. Mà tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống. Họ
hàng, bạn bè tránh mặt vì nợ cũ chưa trả, đã cất lời đi vay.
Đã vậy, mỗi năm dăm ba lần mẹ cô lại phải bỏ mọi công việc
dưới quê lên thăm nuôi con, khi bệnh nặng. “Chúng em vất
vả lắm, anh ạ. Nhưng thấy cháu xanh xao nằm đó mà lòng đau
như cắt, đâu dám quản ngại xa xôi”. Cô nhận ra mình là
nguyên nhân của tất cả những bất hạnh đó và hơn một lần cô
đã nghĩ đến cái chết…
Có lẽ chính vào những thời điểm khó
khăn nhất sau những “rượt đuổi” vô tiền khoáng hậu với thần
chết, cái “khát vọng sống để yêu” của cô mới bùng lên
dữ dội.
Cô lê ra đường làm đủ nghề để sống.
Đi bán bánh mỳ buổi sáng. Nhận vào 600
đ/chiếc bán ra 1000 đ/chiếc, ngày ít được vài ba cái, ngày
nhiều được chục chiếc. Rồi mua chè mạn, nhân trần về pha
nước đi bán rong trong bệnh viện.
Nhưng sức vóc của một bệnh nhân đã cạn
kiệt 87% qua những “trận chiến” với tử thần không cho phép
cô làm được hơn.
Có lẽ nghề “trông bệnh nhân ốm”
là nghề lâu nhất của cô.
Người ta hay nói, ốm lâu sẽ thành thầy
thuốc giỏi. Hồng Công đã quen với các y bác sĩ ở khoa lọc
máu Bạch Mai. Cô cũng thạo việc đo, nhìn huyết áp. Hơn nữa
bệnh nhân nằm lọc máu cũng cần xoa bóp, gãi ngứa chân tay vì
thế nhiều người đã thuê cô trông giúp người nhà đang nằm
điều trị. Cứ mỗi ca như thế (trông nom bệnh nhân 3-5 giờ) cô
được nhận thù lao 12.000 đ. Sáu tháng trời lăn lộn với chăm
sóc những người cùng cảnh ngộ để tìm cửa sống cho mình,
nhưng rồi những trận ốm “quen thuộc” đã kéo tuột cô trở về
với góc phòng trọ tối tăm.
Cô bắt đầu viết, viết như phát cuồng.
Cô viết như một cách để giải thoát cơn
khát sống.
Cô viết vào sách báo khi nằm bẹp ở
“hang ổ” của mình.
Cô viết vào chân tay khi đang lọc máu
trên giường bệnh.
Cô viết lên tường khi đang nấu cơm.
Viết, viết..viết tất cả những gì đã đến
với cô, những gì đang xảy ra xung quanh mình, viết về ký ức
xa xưa tươi đẹp, về một mối tình không trọn vẹn, về cuộc
sống khốn khó hiện tại…
Tác phẩm đầu tay của cô với cái tên “Khát
Vọng SốngĐể Yêu” đã ra đời như thế!. 1000 cuốn
sách bán hết veo. Người ta đang dự kiến sẽ dịch ra tiếng
Đức, tiếng Anh và chắc sẽ là nhiều thứ tiếng khác. Nhuận bút
của những bài báo và của cuốn sách là một dàn máy vi tính
hiện đại có kết nối internet. Cô bắt đầu tự học máy tính để
tiếp tục viết.
Lần này cô đang viết về những người có
cùng số phận với cô. Họ đang cùng nhau chạy đua với tử thần
để giành lấy cuộc sống của chính mình. Cô nhớ lại cuộc chia
tay vĩnh viễn với 3 cư dân trong xóm vào dịp tết vừa rồi. Cô
nhớ đến mối tình của đôi bạn bên hàng xóm, cũng vì bệnh tật
mà họ đến với nhau rồi nên vợ nên chồng… chuyện của cô còn
nhiều lắm.
Và cô sẽ viết, và tiếp tục viết nếu mỗi
sáng khi thức dậy thấy mình vẫn còn sống…
…Xóm thận với những ngõ nhỏ chằng chịt
như mạng nhện có vẻ bề ngoài giống hàng vô vàn những khu lao
động nghèo ở Hà Nội. Ở đó có hơn 200 con người đang vật lộn
với thần chết để giành lấy mạng sống. Có một cô gái nhỏ đang
ngồi bình thản viết với nụ cười trên môi. Cô viết và đợi 1
ngày…
Nguyễn Ánh-Ngọc /
Nguyễn Ý-Đức
Ghi chú:
Nguyễn Hồng Công:
Sinh: 23/10/1978. Lạng Giang (Bắc
Giang).
Bằng C Anh Ngữ. Tự học viết văn. Là
bệnh nhân chung thân tại khoa Lọc máu Bệnh viện Bạch Mai.
Thành viên lâu năm của Xóm chạy thận ngõ 121 Lê Thanh Nghị.
Tác phẩm: Tiểu thuyết “Khát Vọng Sống
Để Yêu”.
Là tác giả nhiều bài báo trên các tờ
báo lớn. |
VỀ MỤC LỤC |
|
KHI
CHỒNG GIẬN Chuyện phiếm của Gã Siêu. |
Nhìn vào vũ trụ, hẳn ai
cũng phải “tâm phục khẩu phục” Đấng Tạo Hóa. Ngài quả là
tuyệt vời, bởi vì vạn vật do Ngài dựng nên rất giản đơn,
nhưng lại vô cùng phong phú.
Thực vậy, theo quan
niệm của đông phương, thì thuở ban đầu chỉ có âm và dương.
Hai thái cực này hoàn toàn khác biệt và trái ngược nhau,
nhưng lại luôn thu hút lẫn nhau để nảy sinh vạn vật :
- Nhất âm, nhất dương
chi vi đạo.
Cũng thế, theo quan
niệm của Cựu ước, Đấng Tạo hóa đã dựng nên một người nam và
một người nữ. Cả hai kết hiệp thành vợ chồng mà sinh ra con
đàn cháu đống, kéo dài dòng giống con người trên mặt đất này
cho đến tận cùng thời gian.
Còn nói theo kiểu tân
cổ giao duyên, đông tây hòa hợp, thì người nam mang tính
dương, còn người nữ mang tính âm. Nam nữ tuy khác biệt nhưng
lại hấp dẫn lẫn nhau, để tạo thành một mái ấm gia đình.
Trong mái ấm này, cần
phải có sự hài hòa cân đối bởi vì nếu âm mà thịnh thì ắt
dương phải suy. Và ngược lại, nếu dương mà thịnh thì ắt âm
phải suy. Chồng mà hiền thì vợ thường….dữ. Chồng mà gầy thì
vợ thường…mập!!!
- Thế gian được vợ hỏng
chồng,
Có đâu mà được tiên
rồng cả đôi.
Tự bản chất, đờn ông
với đờn bà vốn đã khác biệt. Thế nhưng, những khác biệt này
không phải để đối kháng và hủy diệt lẫn nhau, như nước với
lửa, như bóng tối với ánh sáng, nhưng là để bổ túc lẫn cho
nhau. Chẳng hạn người đờn bà vốn yếu đuối thì đã có cái sức
mạnh của người đờn ông bổ túc. Người đờn ông vốn nóng nảy
thì đã có sự dịu hiền của người đờn bà dập tắt.
Ngay cả giữa đờn ông
với đờn ông và giữa đờn bà với đờn bà cũng đã có những khác
biệt, bởi vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình
riêng. Mỗi người là một mầu nhiệm, chẳng ai giống ai.
Hơn thế nữa, nhân vô
thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của mình.
Cái rắc rối, đó là con người không thể sống cô độc lẻ loi
như một hòn đảo giữa biển khơi, hay như một pháo đài biệt
lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, nhất là
với những người thân yêu. Ngay từ ban đầu, Đấng Tạo hóa cũng
đã tỏ rõ điều ấy :
- Người đờn ông ở một
mình không tốt, Ta hãy dựng nên cho nó một người trợ giúp…
Hai thực thể khác biệt
từ bên trong đến bên ngoài, hai con người chẳng giống nhau
từ tâm hồn đến thân xác, thế mà bây giờ lại được nhốt chung
trong cùng một mái nhà để làm nên một gia đình, thì chắc hẳn
sẽ không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực
bội, những hiểu lầm, chả thế mà cha ông chúng ta ngày xưa đã
bảo :
- Chén bát trong rổ còn
có lúc xô xát huống lọ là vợ chồng với nhau.
Hay như bọn con nít
ngoài đường vốn thường nghêu ngao :
- Anh như con chó, em
như con mèo, hai con cắn nhau…
Vì thế, hôm nay gã thử
phân tích xem khi anh chồng mà giận, thì chị vợ thường phản
ứng như thế nào ? Tuy nhiên trước khi mổ xẻ vấn đề, chúng ta
cùng nhau chiêm ngưỡng dung nhan anh chồng cái đã. Vậy bàn
dân thiên hạ đã nhìn anh chồng ra sao ? Và đã thế nào là một
anh chồng ?
Thiên hạ vốn cho rằng
anh chồng là người đờn ông chung sống với người đờn bà sau
khi đã cưới hỏi theo phong tục và làm giá thú theo luật
định, hoặc có khi lờ tít, cứ việc ăn ở với nhau mà chẳng cần
cưới hỏi, hay giá thú giá thiếc nào sốt. Đó là cái định
nghĩa chung chung về anh chồng. Tuy nhiên, nếu đi vào lãnh
vực chuyên môn, gã nhận thấy những bậc chuyên gia mỗi vị lại
hiểu anh chồng một cách khác nhau theo sự méo mó nghề nghiệp
của mình.
Đối với nhà khảo cổ,
thì anh chồng là một thứ đồ cổ ít có giá trị đối với chị vợ,
nhưng biết đâu lại vô giá đối với kẻ khác. Chính vì thế mà
sơ hở một tí là có thể mất chồng như chơi. Người ta cho rằng
trên đời này có ba thứ càng cũ lại càng quí, đó là rượu cũ,
sách cũ và bạn cũ. Nhưng mà anh chồng, dưới mắt chị vợ sau
nhiều năm chung sống, không chừng lại bị ngán tới cần cổ,
như ngán cơm nếp nát vậy. Thế nhưng, khi thò chân bước ra
ngoài xã hội, anh chồng ấy, nếu được trang bị bằng một tí
tiền và một tí quyền, thị lại trở thành vô giá, thiên hạ sẵn
sàng nhào tới ăn có, như mèo mù vớ cá rán, ngủ gật gặp được
chiếu manh.
Đối với ông bác sĩ, thì
anh chồng là một thứ vi khuẩn đã nhờn thuốc nên rất khó trị.
Đúng thế, vào cái thuở ban đầu lưu luyến ấy, thì chị vợ nói
gì anh chồng cũng phải nghe, chỉ cần một liều thuốc nhẹ cũng
chữa chạy được. Đúng là :
- Lệnh ông không bằng
cồng bà.
- Vợ muốn là trời muốn.
Thậm chí có anh chồng
còn cảm thấy lương tâm áy náy và cắn rứt khi cãi lời vợ, vì
thế đã vào tòa giải tội mà xưng thú :
- Thưa cha, con đã
trót dại không vâng lời vợ con phỏng là mười lần.
Còn lâu ngày sau khi
cưới, loại vi khuẩn này đã quen với thuốc nên không còn
phương thức trị liệu. Nói năng cứ như dùi đục chấm nước mắn,
rồi lại còn chủ trương : nhất lý, nhì lì, tam ì, tứ ẩu nữa
mới đáng ghét không cơ chứ.
Đối với nhân viên ngân
hàng, thì anh chồng là kẻ chuyên môn vay nóng, nhưng lại
không có khả năng chi trả. Đúng thế, khi cần tiền thì cái
miệng anh ta dẻo quẹo, nhưng khi đòi lại thì cứ khất lần
khất lượt, từ từ cái đã, chẳng hiểu đến đời ông Bành Tổ nào
mới trả cho xong.
Đối với nhà ngôn ngữ
thì trước khi cưới, anh chồng là người rất “chịu khó” nhưng
sau khi cưới anh ta trở thành một người rất…”khó chịu”. Thực
vậy, trước khi cưới anh chồng rất ư là ga lăng, từ lời ăn
tiếng nói đến cung cách chiều chuộng…tất tật đều dễ thương
chi lạ. Tuy nhiên hãy đợi đấy, sau ngày cưới anh ta mới để
lộ chân tướng vũ phu chi cục mịch của mình. Có những anh
chồng, trước khi cưới qua nhà vợ, hiền lành như con gái,
rượu chẳng biết uống, thuốc chẳng biết hút…Thế mà sau khi
cưới anh ta hóa kiếp thành dân bợm nhậu, uống rượu như hũ
chìm. Có những anh chồng, trước khi cưới qua nhà vợ, việc gì
cũng lăn xả vào làm, còn sau khi cưới ấy hở, lười chảy thây,
chẳng muốn động ngón tay lay thử một ly, một tí nào sốt.
Quả thực trước khi cưới anh ta rất chịu khó, còn sau khi
cưới anh ta lại là người rất khó chịu.
Đối với bác nông dân,
thì anh chồng là loại thóc giống, nếu không tranh thủ “xạ”
gấp, thì có nguy cơ bị hàng xóm vay mất.
Dĩ nhiên còn rất nhiều
định nghĩa khác nữa, tùy theo góc độ của từng người. Tuy
nhiên, bằng đó mà thôi cũng đủ để cho thấy anh chồng là một
thực thể rất ư phức tạp. Nhưng xét cho cùng, đôi khi anh ta
cũng là kẻ đáng thương và tội nghiệp lắm lắm.
Cái đáng thương và tội
nghiệp thứ nhất, đó là anh ta phải lo lắng cho ngày mai,
như một câu danh ngôn đã bảo :
- Người đờn bà chỉ lo
lắng về tương lai cho đến khi chị ta lấy được anh chồng. Còn
người đờn ông thì ngược lại, anh ta chẳng bao giờ lo lắng về
tương lai cho đến khi anh ta lấy được chị vợ.
Điều đó có nghĩa là một
khi đã lấy vợ, anh chồng phải chí thú làm ăn, nai lưng ra mà
xây đắp tương lai. Đối với những anh thanh niên choai choai,
hay phá làng phá xóm, các cụ già thường khuyên cha mẹ chúng
như sau :
- Cứ cưới vợ cho nó là
xong tuốt luốt.. Vợ nó sẽ dạy nó. Và nó chẳng còn quậy phá
nữa.
Lo lắng về tương lai,
thì cũng có nghĩa anh chồng phải lao động đầu tắt mặt tối,
đổ mồ hôi sôi nước mắt để kiếm cho được nhiều tiền. Hay nói
cách khác : cơm áo gạo tiền chính là cái đáng thương và tội
nghiệp thứ hai cho các anh chồng.
Với tiêu chuẩn tiền
bạc, anh chồng bị đánh giá như sau :
- Anh chồng thành công
là anh chồng kiếm được số tiền lớn hơn số tiền chị vợ tiêu
xài.
Cũng vì luôn bị tương
lai ám ảnh và tiền bạc xâu xé, nên anh chồng thường có những
cơn giận chẳng đâu vào với đâu, hay chẳng có lấy một lý do
chính đáng nào sốt. Cũng giống như cơn giận của anh chàng
voi đực đối với chị voi cái trong câu chuyện sau đây.
Có hai vợ chồng nhà voi
đang sống yên ổn và hạnh phúc trong một sở thú tại Nữu Ước.
Thế rồi một buổi sáng đẹp trời nọ, chú chuột nhắt bỗng xuất
hiện. Nhìn thấy chú chuột nhắt, chị voi cái bèn hoảng sợ,
chạy tới chạy lui và rống lên từng hồi. Anh voi đực tức giận
trước cảnh tượng ấy, nên đưa mắt nhìn trừng trừng. Cuối
cùng, như không cầm nổi cơn bực bội của mình, anh voi đực đã
xông thẳng vào chị voi cái và dùng cặp ngà của mình mà hất
tung chị voi cái xuống một cái hố bên cạnh đó, khiến cho mấy
chục người phải vất vả, dùng ván và xe mới trục được chị voi
cái lên khỏi miệng hố. Lúc bấy giờ, anh voi đực có vẻ hối
hận, đứng nhìn mà cặp mắt lại ươn ướt.
Chỉ vì một chú chuột
nhắt mà gia đình nhà voi suýt đi tới chỗ tan vỡ. Cũng vậy
trong đời sống vợ chồng, lắm khi chỉ vì những mâu thuẫn,
những bất đồng nho nhỏ, mà nếu không biết cư xử một cách
khôn khéo, sẽ dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng.
Vậy mỗi khi anh chồng
mà giận, thì chị vợ thường phản ứng như thế nào ?
Phản
ứng thứ nhất :
Chồng giận thì vợ làm
lơ,
Mặc cho bực bội, phe lờ
như không.
Có thể nói được rằng
đây là phản ứng của những chị vợ vừa ngây thơ lại vừa vô tư,
hay nói một cách khác, đây là phản ứng của những chị vợ “trẻ
con”, chưa muốn làm người lớn. Anh chồng bực bội tức tối
cũng mặc kệ, chị vợ vẫn cứ tỉnh bơ, vô tư cười nói, vô tư
ca hát, vô tư ăn hàng, làm như chẳng có gì xảy ra dưới mái
nhà thân yêu. Lúc nào chị vợ cũng tỏ ra ngây thơ như con nai
vàng ngơ ngác. Cho dù nhà hàng xóm có cháy, thì chị vợ vẫn
cứ bình chân như vại.
Những chứng từ trong
bài này, gã trích dẫn ở báo “Phụ nữ Chủ nhật” để làm cho rõ
những phản ứng sẽ được trình bày.
“Anh H, một công chức,
vốn là người trầm tính, thường khi gặp phải điều gì phật ý,
anh ít nói ra. Không nói ra, nhưng vẻ bực dọc lại lộ rõ trên
khuôn mặt và cử chỉ của anh. Ngặt nỗi, cô vợ anh lại chẳng
hề để ý cũng chẳng nói chẳng rằng, cứ kiểu chồng giận thì
vợ…làm lơ.
Vậy là mặc chồng, chồng
giận, mặc vợ, vợ…cứ tỉnh bơ. Chồng không thố lộ, vợ chẳng
chịu hỏi han, khiến gia đình như có chiến tranh lạnh, không
khí nặng nề kéo dài dăm bữa, nửa tháng là thường, cho đến
khi cả hai chịu hết xiết mới nhân một cớ nào đó mà lẳng
lặng…giảng hòa.
Qua những lần giận nhau
như thế, cả hai vẫn chưa xác định được ai là người phải
xuống nước…trước ai. Đôi khi anh H lẩn thẩn nghĩ :
- Quái ! Bực dọc điều
gì, sao mình không chịu nói phứt ra cho nhẹ gánh ?
Cô vợ của H đôi lúc
cũng bần thần :
- Ừ, phải chi bữa đó
mình chịu quan tâm hỏi ảnh giận gì, thì đâu phải chịu cảnh
lạnh lùng, rồi trách ảnh…giận dai !”
Phản
ứng thứ hai :
Chồng giận thì vợ lầm
lì,
Chẳng cần lý sự, cứ ì
là xong.
Có thể nói được rằng
đây là phản ứng của hàng cao thủ võ lâm, hay của những chị
vợ dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Nó không còn vô tư đơn sơ
và vô tư ngây thơ nữa, nhưng là cả một chiến lược rất tinh
vi, rất nặng đô khiến cho phe địch bị sập bẫy, phải tự ý
cầu hòa. Ấy là chưa nói tới nhiều khi còn phải năn nỉ ỉ ôi
tới gẫy cả lưỡi nữa là đàng khác.
Anh chồng mà giận ấy
hở, chị vợ bèn lầm lì, chẳng nói chẳng rằng, sa sầm nét mặt
và ủ dột như chiếc bánh bao chiều, hay sưng thành, một cục,
một đống. Cậy miệng cũng chẳng nói được một chữ. Bất bạo
động, nhưng cũng bất hợp tác.
Có một chị vợ kia đã
thẳng thừng nói với anh chồng đang khoa chân múa tay, la hét
om xòm, như sau :
- Để xem mèo nào thắng
mèo nào. Liệu có chịu nổi sự được lạnh lùng của tôi thì hãy
giận, bằng không thì….biến đi cho rồi.
“Người ta thường được
nghe chị X kể lại một cách đầy kiêu hãnh là anh chồng chị
lúc nào cũng phải chịu lép vế trước sự “kiên cường” của vợ.
Dù đúng dù sai, mà sai thường nhiều hơn đúng, hễ chồng “lỡ
giận”, là chị…đổ lì, đổ bê tông bằng khuôn mặt lạnh dưới 0oC
và thái độ dấm dẳng chua lè, bất hợp tác trong mọi lãnh vực
của đời sống vợ chồng. Và để phục hồi cái không khí đầm ấm
cho gia đình, anh X thường phải xuống nước trước một cách
thành khẩn, mới được vợ tha cho.
Chị X luôn tự hào về
loại vũ khí hiệu nghiệm của mình, đâu biết rằng anh X chồng
chị lâu dần như người bị dồn vào bước đường cùng, có lần
thẩn thờ tâm sự :
- Không thể nào và hình
như không còn cách nào góp ý vớ bả được, từ chuyện lớn đến
chuyện nhỏ. Tình trạng này cứ kéo dài, không biết rồi…sẽ dẫn
tới đâu.”
Phản
ứng thứ ba :
Chồng giận thì vợ nổi
xung,
Đổ dầu vào lửa, đùng
đùng…uỵch nhau.
Nếu hai phản ứng trên
được gọi là phản ứng ngầm và lạnh, thì phản ứng thứ ba này
phải được coi là phản ứng nổ và nóng. Chồng cũng ghê mà vợ
cũng gớm. Quả là xứng đôi vừa lứa.
Nếu chồng nóng như
Trương Phi, thì vợ cũng dữ chẳng kém gì sư tử Hà Đông. Nếu
chồng nói một, thì lập tức vợ cũng trả đũa, phản pháo lại
gấp hai. Nếu chồng quẳng nồi niêu, thì lập tức vợ cũng ném
bát đĩa. Nếu chồng mày với tao, thì lập tức vợ cũng tao với
mày. Nếu chồng đấm với đá, thì lập tức vợ cũng cào với cấu.
Nếu chồng thượng cẳng chân, thì lập tức vợ cũng hạ cẳng tay.
Nếu chồng hét, thì lập
tức vợ cũng gào và hậu quả đương nhiên sẽ xảy ra, đó là láng
giềng phải nghe. Cả hai đều hành động theo đúng cung cách mà
ngày xưa các cụ đã diễn tả :
- Chồng giận, vợ giận,
thì dùi nó quăng.
“Chuyện của vợ chồng
anh Bảy thợ hồ là một điển hình về chiến tranh nóng, chiến
tranh…tóe lửa giữa các vì sao, trong những gia đình mà hễ
chồng giận thì vợ cũng…nổi xung. Anh Bảy tính vốn nóng như
lửa, ngặt nỗi chị Bảy, vợ anh, cũng chẳng vừa, nên nhà họ
thường xuyên nổ ra chiến sự, khiến mấy đứa con bị văng
miểng, mà hàng xóm cũng bị vạ lây.
Chuyện đĩa bay, chén
bể, nồi móp giữa họ là chuyện bình thường, xảy ra như cơm
bữa. Chồng một tiếng, thì vợ…ba tiếng. Chồng văng tục, thì
vợ…tục văng, đốp chát trả theo không kém cạnh.
Công bằng mà nói thì
lắm lúc nội vụ chỉ do anh Bảy vô cớ mắng chửi lãng òm, thế
là chị Bảy bụp lại ngay, đáp trả dữ dội bằng những lời lẽ
nặng nề. Cả hai đã phải mấy lần vác đơn ra tòa xin ly dị,
rồi được hòa giải, rồi lại…
Anh Bảy khi được hỏi
thường tìm cớ lảng tránh, còn chị Bảy thì thở ra :
- Tánh tui nó vậy,
nhiều lúc nghĩ cũng bậy, nhưng…sửa hổng đặng, biết sao bây
giờ.
Có người bảo :
- Gẫm ra cũng chí lý.
Biết sai, thì phải biết
sửa. Sửa gấp không đặng, thì sửa từ từ, mỗi lần một chút. Vợ
sửa trước, mới mong chồng có cơ hội phục thiện để cùng nhau
vun vén hạnh phúc gia đình.”
Phản
ứng thứ tư :
Chồng giận thì vợ làm
lành,
Miệng cười hớn hở, rằng
anh giận gì ?
Có thể nói được rằng
đây là loại phản ứng mang tính cách xây dựng hơn cả, khả dĩ
hóa giải được cơn giận của anh chồng.
Như trên chúng ta đã
trình bày : va chạm, xích mích, bất đồng là chuyện đương
nhiên của cuộc sống vợ chồng. Không va chạm, không xích
mích, không bất đồng mới là chuyện bất bình thường, cần phải
xét lại.
Tuy nhiên điều quan
trọng, đó là phản ứng của chị vợ trong lúc “hữu sự”. Nếu
biết cư xử một cách tế nhị và khéo léo, thì sau cơn mưa trời
lại sáng, sau cơn giận, anh chồng sẽ yêu thương nhiều hơn.
Thật đúng với chiến thuật :
- Lùi một bước để tiến
tới hai bước.
Trong lúc anh chồng bị
tẩu hỏa nhập ma, cơn giận bốc lên đùng đùng, thì việc chị vợ
cần phải làm ngay, đó là hãy tiết kiệm lời nói, như người
xưa đã từng dạy :
- Chồng giận thì vợ bớt
lời,
Cơm sôi nhỏ lửa, một
đời chẳng khê.
Thực vậy, đạn bắn xuống
bùn, chẳng công phá được chi. Trước sự yên lặng của chị vợ,
anh chồng la hét mãi, quát tháo mãi cũng sẽ mỏi mồm, tới
một lúc sẽ tự động tắt đài, êm ru bà rù.
Sự yên lặng của chị vợ
trong hoàn cảnh này, quả là quí hơn vàng, hơn bạc. Bởi vì
nếu không yên lặng, thì chắc chắn hậu quả sẽ khó mà lường
nổi. Sau cơn giận, gia đình chỉ còn là một bãi chiến trường
với những đổ vỡ và tan hoang. Bởi vì :
- Bên thẳng thì bên
phải chùng,
Hai bên đều thẳng, thì
cùng đứt dây.
Tuy nhiên, yên lặng
không có nghĩa là cam lòng chịu vậy. Trái lại, trong những
lúc thuận tiện, chị vợ nên dùng những lời nói ôn tồn và
thành thực để nhắc bảo. Lúc bấy giờ, những lời nói êm dịu
của chị vợ như rót vào tai, khiến anh chồng dễ dàng chấp
nhận, nhờ đó giúp nhau thăng tiến bản thân, mà vẫn giữ được
bàu khí hòa thuận cho gia đình. Bởi vì :
- Mật ngọt thì chết
ruồi.
Hay như một câu danh
ngôn cũng đã bảo :
- Người ta bắt được
nhiều ruồi chỉ bằng một giọt mật, còn hơn là bằng cả một
thùng giấm chua.
“Hạnh phúc biết bao cho
những ai được tắm mình giữa bàu khí gia đình trong ấm ngoài
êm. Và đó cũng là phần thưởng quí giá cho những người vợ
biết khéo léo, mềm mỏng và thông minh trước những cơn giận,
dù đôi khi…kỳ cục của chồng mình.
Ai đó đã từng nói rằng
: nụ cười của phụ nữ có thể làm thay đổi cả thế giới, huống
hồ là đối với…anh chồng bẳn tính của mình. Nhưng nói thế
không có nghĩa người vợ phải luôn lép vế, khuất phục trước
chồng bởi bất cứ lý do nào. Vì theo các chuyên gia về tình
yêu hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng theo kinh nghiệm
của các người chị, người mẹ có một mái ấm tuyệt vời, thì cái
sự làm lành cũng chính là thứ vũ khí quan trọng để bảo vệ và
tôn tạo hạnh phúc gia đình.”
Để kết luận, gã xin kể
lại một mẩu chuyện như sau :
Có hai vợ chồng nọ, hồi
còn trẻ họ sống rất yêu thương và hạnh phúc, nhưng khi đã về
già, thì lại thường xuyên lục đục và cãi vã nhau suốt ngày.
Ông nói một thì bà nói hai. Ông nói hai thì bà nói ba. Và
ông nói ba thì bà nói tới bảy, tám, chín, mười…Cuối cùng,
chẳng ai chịu nhận mình là kẻ có lỗi.
Người hàng xóm thấy vậy
bèn góp ý :
- Trên núi kia có một
vị sư bào chế được một thứ thuốc giúp cho nhiều gia đình
được êm ấm thuận hòa.
Bà nghe lời, bèn đi lên
núi tìm gặp vị sư. Sau khi nghe trình bày, vị sư liền trao
cho bà một chai thuốc và nói :
- Đây là một loại thuốc
gia truyền rất hiệu nghiệm. Hễ khi nào ông gây sự, bà chỉ
cần ngậm một ngụm ở trong miệng, không được nuốt và cũng
chẳng được nhổ ra, cho tới khi ông không còn nói nữa, rồi
mọi chuyện sẽ được ổn thỏa và tốt đẹp.
Bà hăm hở xuống núi.
Thế nhưng vừa về tới đầu ngõ, thì ông từ trong nhà vội chạy
ra, nét mặt hầm hầm và nói như quát :
- Bà rúc ở cái xó xỉnh
nào mà giờ này mới vác xác về. Đi mà lo cơm nước, không thì
liệu hồn đấy.
Nghe vậy, bà liền tợp
một ngụm thuốc, ngập ở trong miệng đúng như lời căn dặn của
vị sư. Thấy bà chẳng đáp lời, một lúc sau ông cũng lặng
thinh.
Bà hết sức vui mừng và
thầm nghĩ :
- Đây quả là một thứ
nước thần rất hiệu nghiệm.
Khi bà bắt đầu vo gạo
để thổi cơm, thì ông lại la :
- Làm gì mà chậm như
rùa vậy.
Bà toan cãi lại, nhưng
nhớ tới lời căn dặn của vị sư, bèn tợp một ngụm thuốc trong
miệng. Thấy bà không cãi lại, ông đành phải im luôn. Từ đó
hai ông bà dần dần trở lại cuộc sống êm ấm và hạnh phúc của
hồi còn trẻ. Thứ nước thần hay thuốc gia truyền ấy, chẳng
qua chỉ là nước lã mà thôi.
Kinh nghiệm ngàn đời
cho chúng ta thấy :
- Một sự nhịn là chín
sự lành.
Trong cuộc sống vợ
chồng, nhiều lúc phải nhường. Mà đã nhường thì nhiều lúc
cũng phải nhịn. Mà đã nhịn thì nhiều lúc cũng phải cắn răng
chịu nhục, nhưng đó lại là chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa
hạnh phúc.
Gã Siêu
gasieu@gmail.com
|
VỀ MỤC LỤC |
|
- Mọi liên lạc:
Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin
gởi về địa chỉ
giaosivietnam@gmail.com
- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:
Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục
vụ của Giáo sĩ; Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các
Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn
gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực
Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh
vực; Mỗi Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức
Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và
Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)
- Quí vị cũng có
thể tham khảo những số báo đã phát hành tại
www.conggiaovietnam.net
Rất mong được sự
cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị
Xin chân thành
cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi
bằng nhiều cách thế khác nhau.
TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam
Lm. Luca
Phạm Quốc Sử
USA
|
|
*************
|
|